Sam (Cua móng ngựa)
Sam (tên tiếng anh Horseshoe crab) hay còn gọi là cua móng ngựa là loài động vật không xương sống (tên khoa học Tachypleus tridentatus), sinh sống chủ yếu ở trong và xung quanh nước biển cạn, trên nền đáy cát hoặc bùn mềm. Được con người khai thác, buôn bán và sử dụng làm thực phẩm.
Cua móng ngựa có quan hệ họ hàng gần với các loài chân đốt (chẳng hạn như nhện) hơn là cua thật. Chúng là một phần của phân ngành Chelicerata và được phân loại vào lớp Merostomata, bao gồm các loài cua móng ngựa cũng như eurypterids (bọ cạp biển). Cua móng ngựa là một loài động vật chân đốt thuộc họ Limilidae. Tồn tại trên Trái Đất từ cách đây 450 triệu năm, loài cua này còn được mệnh danh là những hóa thạch sống. Đặc biệt, máu của chúng có màu xanh da trời.
Quá trình nghiên cứu
Khoản tài trợ của Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) sẽ giúp Kepley Biosystems phát triển công nghệ phát hiện một cách nhanh chóng đối với bệnh nhiễm trùng máu. Các nhà khoa học Kepley đã thiết lập chuyên môn quan trọng trong chăn nuôi cua móng ngựa, tối ưu hóa các thành phần dinh dưỡng quan trọng của chúng và tạo ra một nền tảng nuôi trồng thủy sản bền vững.
Các nhà khoa học Kepley đã thiết lập chuyên môn quan trọng trong chăn nuôi cua móng ngựa. Ảnh: thefishsite.com
Những nỗ lực ở giai đoạn I đã tạo ra lysate (LAL) phản ứng mạnh hơn và nhất quán hơn so với các vật liệu thương mại được thu thập từ tự nhiên, đồng thời giám sát và đảm bảo sức khỏe của những con cua đực. Theo số liệu thu được, LAL phản ứng với mầm bệnh ở mức phần nghìn tỷ.
Tính nguy cấp của bệnh nhiễm trùng máu
Nhiễm trùng máu cướp đi sinh mạng cứ sau 2,8 giây và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong tại bệnh viện, hàng năm cướp đi sinh mạng của khoảng 49 triệu người trên toàn thế giới. Là phương diện chăm sóc sức khỏe tốn kém nhất, gây thiệt hại ở Hoa Kỳ vượt quá 62 tỷ đô la mỗi năm. Tuy nhiên, căn bệnh này vẫn tiếp tục đặt ra những thách thức về kiểm soát và phòng ngừa, cứ ba bệnh nhân nhiễm bệnh thì có một người không thể chống chọi nổi.
Phát hiện nhanh chóng các bệnh lây nhiễm qua đường máu trước khi bắt đầu nhiễm trùng máu là rất quan trọng, vì nguy cơ tử vong tăng 8% mỗi giờ nếu không được điều trị thích hợp. Tuy nhiên, khi bị nghi ngờ từ các triệu chứng lâm sàng thường bắt chước các nguyên nhân khác, liệu pháp kháng sinh đã làm phát sinh vi khuẩn kháng thuốc hoặc ’siêu vi khuẩn’ do các phương pháp xét nghiệm lâu đời trước đó. Như vậy, lạm dụng kháng sinh đã được Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố là một trong mười mối đe dọa hàng đầu đối với nhân loại.
Sự phức tạp của bệnh truyền nhiễm trong một đại dịch hô hấp đã làm nổi bật cách chẩn đoán sớm trong 1-3 giờ với lượng mẫu nhỏ và sự phân biệt mầm bệnh có thể đóng góp to lớn cho việc chăm sóc sức khỏe. Di chứng nhiễm trùng là tương tự nhau, nhưng cách điều trị lại khác nhau đáng kể. Bằng chứng về những thông số này cũng là trong các mục tiêu Giai đoạn II của nhóm nghiên cứu.
Nếu có thể tác động liên tục đến toàn bộ quá trình chăm sóc, từ nhập viện cho đến chăm sóc bệnh nhân và xuất viện, bằng cách xác định sớm các bệnh nhiễm trùng và tối ưu hóa việc điều trị sẽ có thể cứu sống nhiều người.
Nghiên cứu Giai đoạn I của họ đã chứng minh tiềm năng của một xét nghiệm sàng lọc có chi phí phải chăng hơn so với xét nghiệm phân tử và cung cấp hướng dẫn điều trị trong ngày mà không phải chờ đợi nhiều ngày (đối với vi sinh học lâm sàng truyền thống). Quá trình phát triển Giai đoạn II sẽ tập trung vào sự phù hợp với quy trình làm việc của bệnh viện hiện có và các quy trình quản lý bệnh truyền nhiễm.
Ngoài hợp đồng Giai đoạn II trị giá 1 triệu đô la, Kepley đủ điều kiện nhận thêm 500.000 đô la tiền tương ứng với khoản đầu tư của bên thứ ba đủ điều kiện. Họ đang tìm kiếm sự hợp tác với một công ty hàng đầu trong ngành toàn cầu để đưa công nghệ này đến những bệnh viện đang rất cần các công cụ quản lý nhiễm trùng máu mới. Đồng thời giảm thiểu rủi ro do kháng kháng sinh, điều đã và đang tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng ẩn sau Covid-19 và nhiều loại virus khác.