Nhiệt độ và sự sống của cua biển

Một kết quả được công bố gần đây về sự tương quan giữa nhiệt độ với sự sống sót của cua biển (Scylla paramamosain) bởi nhóm nghiên cứu người Trung Quốc.

Cua biển
Cua biển Scylla paramamosain, một trong số các loài giáp xác quan trọng về mặt kinh tế. Ảnh: Narapornm.

Nhóm tác giả cho rằng cua biển có khả năng thích ứng tương đối kém với stress lạnh kéo dài và dẫn đến sự sống sót giảm, hoạt động chống oxy hóa, tổn thương mô và mức độ biểu hiện gen phản ứng với căng thẳng ở cua biển giảm.

Cua biển Scylla paramamosain, một trong số các loài giáp xác quan trọng về mặt kinh tế, được phân bố rộng rãi dọc theo đường bờ biển phía nam Trung Quốc và khu vực Thái Bình Dương rộng lớn hơn, trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, ngoài việc nuôi và sản xuất giống thì những hiểu biết về loài này rất hạn chế so với loài giáp xác khác là tôm. Vấn đề mầm bệnh lây nhiễm, đặc điểm sinh lý, miễn dịch, hay các yếu tố môi trường sống của chúng vẫn chưa có nhiều báo cáo.  

Nhiệt độ là một yếu tố môi trường quan trọng đối với động vật thủy sản. Được biết cua biển loài Scylla serrata có tỷ lệ sống cao ở 25–30°C, tuy nhiên những con cua này nuôi ở 35°C lại có tỷ lệ chết 100% do cua không lột xác được. Ở một khía cạnh khác về nhiệt độ thấp, ấu trùng cua huỳnh đế (Lithodes santolla) ở nhiệt độ 3°C thì tỷ lệ sống bắt đầu giảm nhanh chóng. Nhịp tim của ghẹ xanh (Portunus segnis) chậm lại và cuối cùng ghẹ chết ở nhiệt độ dưới 5°C. Hơn nữa, ảnh hưởng nhiệt độ đối với cua cũng được đánh giá qua các thông số về tăng trưởng và phát triển, căng thẳng, khả năng miễn dịch trao đổi chất.

Nhiệt độ dưới mức tối ưu gây ra các phản ứng oxy (ROS) quá mức trong cơ thể sinh vật. ROS quá mức có thể gây ra tổn thương oxy hóa, tổn thương DNA và tế bào, dẫn đến tổn thương mô và ảnh hưởng đến chức năng của tế bào. Để ngăn ngừa stress oxy hóa và duy trì cân bằng nội môi, các sinh vật đã tiến hóa các enzym chống oxy hóa như catalase (CAT), superoxide dismutase (SOD) và glutathione peroxidase (GPX), cũng như một số chất như glutathione, axit ascorbic và metallicothionein, những chất này là những chất chống oxy hóa không có enzyme. Malondialdehyd (MDA) là sản phẩm cuối cùng của quá trình peroxy hóa lipid màng và hàm lượng của nó có thể xác định mức độ căng thẳng oxy hóa.

Tuy nhiên, căng thẳng quá mức vượt quá mức chịu đựng của sinh vật có thể gây ra tổn thương oxy hóa hoặc chết. Apoptosis là quá trình chết tế bào được điều chỉnh bởi các gen rất quan trọng trong việc loại bỏ các tế bào bị tổn thương và hoại tử để duy trì trạng thái cân bằng động của cơ thể. Ngoài ra, stress nhiệt có thể tăng cường quá trình tổng hợp protein sốc nhiệt, đóng vai trò thiết yếu trong việc chống lại stress. Bao gồm, HSP70 và HSP90 đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể. Hay HSP10, HSP40, HSP60 và protein điều hòa glucose 78 (GRP78) là thành viên của họ HSP70. Đối với động vật giáp xác, sự biểu hiện của các gen liên quan đến HSP liên quan đến sự điều chỉnh tăng trong điều kiện căng thẳng lạnh và căng thẳng nhiệt.


Ngoài việc nuôi và sản xuất giống thì những hiểu biết về loài này rất hạn chế so với loài giáp xác khác là tôm

Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm đối với cua biển cái có trọng lượng trung bình 350g, trước khi thử nghiệm, cua được nuôi riêng trong RAS cua để thích nghi trong ba tuần và cho ăn bốn con nghêu tươi mỗi con lúc 9:00 sáng (nhiệt độ nước 15–17 °C), thực hiện các điều chỉnh tương ứng theo sự săn mồi của ngày hôm trước. Sau ba tuần, 144 con cua khỏe mạnh được chọn ngẫu nhiên và bố trí thí nghiệm đánh giá sự ảnh hưởng của các mức nhiệt độ khác nhau (8, 12, 16 và 20°C) lên tỷ lệ sống, khả năng chống oxy hóa và biểu hiện gen protein sốc nhiệt (HSP), thời gian thử nghiệm kéo dài 8 tuần. Nhóm tác giả nhận định sự ảnh hưởng của nhiệt độ đến tỷ lệ sống của cua biển là theo đường parabol, với tỷ lệ sống cao nhất và thấp nhất xảy ra tương ứng ở 16°C và 8°C. Cụ, thể, tỷ lệ sống ở 16°C là 88,9 ± 9,6% và 8 °C là 22,2 ± 9,6%, khác biệt có ý nghĩa thống kê (P <0,05).

Ngoài ra, tỷ lệ sống không khác biệt đáng kể giữa các nhóm 12°C, 16°C và 20°C (P > 0,05). Kiểm tra mô học của gan tụy cho thấy cấu trúc mô gan tụy vẫn còn nguyên vẹn và ranh giới tế bào được quan sát rõ ràng ở 16°C và 20°C. Tuy nhiên, các tế bào gan tụy ở nhóm 12°C và 8°C tương ứng là không bào và không rõ ràng.

Hơn nữa, mức độ cao của phản ứng oxy (ROS) và malondialdehyd (MDA) và mức độ thấp của khả năng chống oxy hóa (T-AOC) và superoxide dismutase (SOD) trong gan tụy đã được quan sát thấy ở nhóm 8°C. Sự biểu hiện gen HSP60 và HSP70 đã được điều chỉnh tăng đáng kể, nhưng biểu hiện gen HSP10, HSP40, HSP90 và protein điều hòa glucose 78 (GRP78) đã được điều chỉnh giảm ở 8°C.

Nhìn chung, những kết quả này cho thấy rằng nhiệt độ đan xen ảnh hưởng lớn đến sự sống sót của cua biển và những tác động này có thể được điều hòa thông qua chất chống oxy hóa, phản ứng HSP và quá trình chết theo chương trình.

Đáng chú ý, nhiệt độ đan xen tối ưu cho S. paramamosain được ngoại suy là 14,2–16,1°C. Điều này cho thấy cần quan tâm đến việc kiểm soát nhiệt độ trong quá trình trú đông của cua biển. 

Kết quả của nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ nâng cao hiểu biết về sự thích nghi sinh lý cua biển S. paramamosain với nhiệt độ và tối ưu hóa việc quản lý mùa đông của cua biển. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục các nghiên cứu về ngưỡng nhiệt độ cao ảnh hưởng đến cua biển, đáp ứng trước bối cảnh nhiệt độ ngày càng nóng lên như hiện nay, và đây cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến xuất hiện bệnh tật trên cua.

Đăng ngày 24/04/2023
Hồng Huyền @hong-huyen
Khoa học

Cấu trúc ống tiêu hóa ảnh hưởng đến đặc tính ăn của cá thát lát còm

Trong quá trình sản xuất giống các loài thủy sản, xác định tính ăn của cá bột là có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình sản xuất. Có rất nhiều nghiên cứu về tính ăn của cá bột cũng như sự phát triển của ống tiêu hóa để chọn lựa loại thức ăn thích hợp ương cá.

Cá thát lát còm
• 12:07 23/09/2023

Bệnh nấm và ký sinh trùng trên tôm càng xanh

Tôm càng xanh là loài giáp xác nước ngọt có giá trị thương mại quan trọng (Nguyen et al. 2019). Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của ngành nuôi tôm này đã dẫn đến các hậu quả liên quan đến tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm, chủ yếu do virus và vi khuẩn gây ra (Suanyuk và Dangwetngam 2014).

Tôm càng xanh
• 12:04 18/09/2023

Baicalein từ cây hoàng cầm giúp chống lại virus đốm trắng WSSV

Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang dần hạn chế việc sử dụng hóa chất và kháng sinh trong NTTS do tần suất dịch bệnh cao và dẫn đến suy thoái môi trường. Do đó, các loại phụ gia bổ sung trong thức ăn được ưu tiên nghiên cứu và phát triển.

Cây hoàng cầm
• 15:41 14/09/2023

Protein sinh học có thể thay thế cho kháng sinh trong nuôi tôm không?

Sử dụng protein sinh học thay thế kháng sinh trong nuôi tôm là một giải pháp hữu hiệu để đối phó với vấn đề lạm dụng kháng sinh và bảo vệ sức khỏe con người cũng như môi trường tự nhiên trong ngành nuôi trồng thủy sản.

Kháng sinh tôm
• 17:08 12/09/2023

Cấu trúc ống tiêu hóa ảnh hưởng đến đặc tính ăn của cá thát lát còm

Trong quá trình sản xuất giống các loài thủy sản, xác định tính ăn của cá bột là có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình sản xuất. Có rất nhiều nghiên cứu về tính ăn của cá bột cũng như sự phát triển của ống tiêu hóa để chọn lựa loại thức ăn thích hợp ương cá.

Cá thát lát còm
• 15:55 23/09/2023

Loại cá nào nên và không nên có trong chế độ ăn

Nguồn dinh dưỡng từ cá có các chất quan trọng như protein, vitamin D và nguồn axit béo omega - 3 dồi dào, cực kỳ quan trọng đối với cơ thể và não.

Ăn cá
• 15:55 23/09/2023

Một số mầm bệnh phổ biến trên lươn đồng

Lươn đồng là đối tượng nuôi có nhiều tiềm năng do thịt lươn có nhiều dinh dưỡng, thời gian nuôi ngắn, chi phí đầu tư thấp, dễ nuôi, giá cả ổn định đem lại hiệu quả kinh tế cao, giúp cải thiện đời sống cho người dân.

Lươn
• 15:55 23/09/2023

Giải pháp dựa vào thiên nhiên để quản lý nước thải nuôi tôm

Theo một dự án nghiên cứu mới, các giải pháp dựa trên thiên nhiên có thể được sử dụng hiệu quả trong chiến lược xử lý nước thải cho ngành nuôi tôm.

Ao tôm
• 15:55 23/09/2023

Dư lượng kháng sinh tồn tại lớn trong tôm

Sử dụng kháng sinh bừa bãi trong nuôi tôm là tình trạng sử dụng kháng sinh không đúng cách, không đúng chỉ định của bác sĩ thú y, hoặc sử dụng kháng sinh quá liều. Tình trạng này đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng, gây ra nhiều hậu quả cho sức khỏe con người, môi trường và ngành nuôi tôm.

Kháng sinh
• 15:55 23/09/2023