Việc kiểm tra do Chi cục Thủy sản tiến hành vào cuối tháng 7/2023, tập trung vào một số vùng nuôi cá tra cung cấp nguyên liệu cho 4 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Cụ thể, 45 vùng nuôi liên kết mua bán với Công ty TNHH MTV Thanh Bình Đồng Tháp, 41 vùng nuôi liên kết mua bán với Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn, 10 vùng nuôi liên kết mua bán với Công ty TNHH Thủy sản Biển Đông, 1 vùng nuôi liên kết mua bán với Công ty Caseamex.
Kết quả theo báo cáo của Chi cục Thủy sản, liên kết với Công ty TNHH MTV Thanh Bình Đồng Tháp có 45 vùng nuôi thì 4 vùng đã ngưng hoạt động, 9 vùng đạt và 32 vùng không đạt. Liên kết với Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn có 41 vùng nuôi thì 3 vùng đã ngưng hoạt động, 9 vùng đạt và 29 vùng không đạt. Liên kết với Công ty TNHH Thủy sản Biển Đông có 10 vùng nuôi thì 2 vùng đã ngưng hoạt động, 1 vùng đạt và 7 vùng không đạt. Liên kết với Công ty Caseamex có 1 vùng nuôi, không đạt.
Đánh giá chung của Chi cục Thủy sản, đa phần các vùng nuôi của doanh nghiệp, của các cơ sở thực hiện theo Thông tư 38/2018/TT-BNNPTNT đều đáp ứng đủ điều kiện an toàn thực phẩm (điều kiện ao nuôi, cơ sở vật chất an toàn phù hợp sản xuất, sử dụng con giống đã được kiểm soát chất lượng). Còn các vùng nuôi nhỏ lẻ cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp thì vẫn mắc nhiều lỗi theo quy định.
Trong buổi tập huấn ngày 27/7/2023, cán bộ Cục Thủy sản hướng dẫn chi tiết việc làm bờ ao nuôi cá tra phải thay đổi nhiều thói quen để đảm bảo an toàn thực phẩm theo quy định
Các lỗi cụ thể là: Nhà kho thức ăn xuống cấp, bị nứt, sụp lún, không có đầy đủ pallet, xếp thức ăn không đảm bảo theo quy định, không kiểm soát được động vật gây hại, sử dụng kho chứa thức ăn cũng là nhà ở của công nhân. Chưa bố trí kho vật tư chứa bao bì đã qua sử dụng. Cơ sở chưa trang bị đầy đủ các biển báo an toàn lao động, chưa có đầy đủ dụng cụ đo các chỉ tiêu môi trường nước ao nuôi theo quy định, chưa có thùng xử lý dụng cụ, một số vùng nuôi còn nuôi chó, gà gây mất vệ sinh.
Một số vùng nuôi mua giống từ những cơ sở chưa có giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản.
Các vùng nuôi nhỏ lẻ chưa đầu tư khu vực xử lý chất thải và cá chết, bùn thải. Không lưu trữ các chứng từ về con giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường, kết quả quan trắc môi trường. Chưa ghi chép, lưu trữ hồ sơ đúng theo quy định, gây khó khăn về việc truy xuất nguồn gốc.
Theo lãnh đạo Chi cục Thủy sản, nhiều lỗi có nguyên nhân chính là thói quen sản xuất theo tập quán cũ, tận dụng các kho lớn để dùng chung, không kín, không cách biệt. Đây cũng là lỗi chung của các vùng nuôi cá tra nhỏ lẻ ở ĐBSCL.
Trước thực trạng trên, Cục Thủy sản nêu ra một số câu hỏi để vùng nuôi cá tra trả lời, nếu trả lời được mới đạt yêu cầu. Có những câu hỏi mà thói quen sản xuất theo tập quán cũ không nghĩ tới. Đơn cử: Tần suất xử lý cá chết như thế nào? Quy trình xử lý khi cá bệnh, cá chết ra sao? Cách phân biệt cá chết tự nhiên và chết do bệnh? Kiểm soát sự xâm nhập vào khu nuôi của vật nuôi, dịch hại như thế nào? Mỗi ao có dụng cụ sử dụng riêng hay dùng chung cả vùng nuôi, nếu dùng chung thì kiểm soát mối nguy thế nào? Cơ sở nuôi có dự kiến ngày thu hoạch không, khi không thu họach vào ngày dự kiến thì xử lý ra sao?
Lãnh đạo Cục Thủy sản cho hay, yêu cầu của thị trường cá tra toàn cầu đang đòi hỏi các vùng nuôi cá phải thay đổi để đáp ứng, dù thay đổi thói quen là rất khó khăn nhưng là điều kiện cho ngành cá tra phát triển ổn định.
Quá trình thay đổi có nhiều khó khăn, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cũng cần chủ động trao đổi, phối hợp, hỗ trợ các vùng nuôi cá tra để đạt kết quả tốt. Khẩn trương khắc phục hạn chế, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cho các vùng nuôi cá tra để đưa ngành nuôi cá tra Việt Nam lên chất lượng mới.