Thức ăn giúp thúc đẩy tăng trưởng và tỉ lệ sống Artemia

Nghiên cứu mới đây của Ngô Thị Thu Thảo, 2019 cho thấy khẩu phần ăn có thể thúc đẩy sự tăng trưởng và tỷ lệ sống, cũng như ảnh hưởng tích cực đến quá trình thành thục sinh sản của Artemia franciscana.

Thức ăn giúp thúc đẩy tăng trưởng và tỉ lệ sống Artemia
Artemia franciscana. Ảnh: staticflickr.com

Tảo là nguồn thức ăn không thể thiếu trong sản xuất giống và nuôi thương phẩm các loài động vật biển, động vật thân mềm hai mảnh vỏ và giai đoạn ấu trùng của một số loài giáp xác. Tuy nhiên, không phải tất cả các loài tảo đều thích hợp cho các loài động vật ăn lọc.

Do đó, việc tìm kiếm một nguồn thức ăn thay thế ít tốn kém hơn và giảm thiểu các giai đoạn sản xuất phức tạp, nhưng vẫn đảm bảo được các tiêu chí về dinh dưỡng và khả năng hấp thụ của sinh vật là rất cần thiết. 

SCD (single cell detritus-dạng tế bào đơn) không phải là tế bào sống mà là mảnh vụn của rong biển được tách ra thành dạng các tế bào đơn lẻ. Tùy theo loài rong biển, phương pháp thu hoạch và bảo quản mà SCD sẽ có những giá trị dinh dưỡng đặc trưng khác nhau. Các hạt SCD có đường kính 2-10 µm, tương tự như kích thước của các loài tảo do đó có thể sử dụng SCD làm thức ăn ở các trại sản xuất giống động vật thân mềm. SCD có hàm lượng đạm thô là 35%, do đó có giá trị dinh dưỡng cao.

Các nghiên cứu về thu hoạch và sử dụng SCD đã được thử nghiệm trên Artemia (Uchida, 1997), nghêu Ruditapes decussatus (Camacho et al., 2004) và hàu Crassostrea belcheri (Tanyaros và Chuseingjaw, 2016) cho thấy ảnh hưởng khá tích cực đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của các đối tượng nêu trên. 

Vì Artemia có đặc điểm ăn lọc, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá sản phẩm SCD từ rong bún và rong câu làm thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của Artemia. 

Quy trình chiết xuất SCD từ rong câu và rong bún        

nuôi artemia, thức ăn artemia, Artemia, ương nuôi artemia, nguyên liệu  

Hình 1: rong câu Hình 2: rong bún

 nuôi artemia, thức ăn artemia, Artemia, ương nuôi artemia, nguyên liệu

Bố trí thí nghiệm

Có 2 thí nghiệm trong nghiên cứu này. Đầu tiên thí nghiệm đã được thực hiện để đánh giá năng suất và thành phần của SCD từ nguồn rong biển khác nhau. Trong thí nghiệm thứ hai, Sản phẩm SCD tốt nhất được sử dụng làm thức ăn cho Artemia franciscana để đánh giá hiệu suất tăng trưởng, tỷ lệ sống và sinh sản.

Thí nghiệm 1: Khả năng thu sản phẩm và chất lượng SCD sau khi ủ với nấm men bánh mì (bao gồm 8 nghiệm thức)

- Nghiệm thức 1: SCD từ rong câu, không cần lên men

- Nghiệm thức 2:  SCD từ rong câu + 106 tế bào nấm men / mL 

- Nghiệm thức 3: SCD từ rong câu + 105 tế bào nấm men / mL 

- Nghiệm thức 4: SCD từ rong câu + 104 tế bào nấm men / mL 

- Nghiệm thức 5: SCD từ rong bún, không cần lên men

- Nghiệm thức 6:  SCD từ rong bún + 106 tế bào nấm men / mL 

- Nghiệm thức 7:  SCD từ rong bún + 105 tế bào nấm men / mL

- Nghiệm thức 8:  SCD từ rong bún + 104 tế bào nấm men / mL 

Kết quả: SCD từ rong câu được ủ nấm men với mật độ 105 tế bào / mL  có mật độ hạt cao nhất và quá trình thu hoạch sản phẩm SCD này đạt hiệu quả cao hơn so với rong bún. 

Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của SCD đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của Artemia được cho ăn 7 loại thức ăn khác nhau (tương ứng với 5 nghiệm thức).

- Nghiệm thức 1: Thức ăn tôm sú số 0 (Đối chứng)

- Nghiệm thức 2: Sản phẩm SCD 100%

- Nghiệm thức 3: 75% SCD + 25% thức ăn tôm sú số 0 

- Nghiệm thức 4: 50% SCD + 50% thức ăn tôm sú số 0 

- Nghiệm thức 5: 25% SCD + 75% thức ăn tôm sú số 0 

Chuẩn bị SCD: Rong câu được lên men với 105 tế bào nấm men / mL và glucose 70mg / L. SCD là thu hoạch vào ngày thứ 7 sau khi ly tâm và sấy khô (tại 60oC trong 24 giờ), sau đó sản phẩm SCD được bảo quản ở 4oC để nuôi Artemia.

Ấp trứng và thu ấu trùng Artemia để bố trí thí nghiệm

Trứng bào xác Artemia được ấp với nước biển có độ mặn 30‰, sục khí và chiếu sáng liên tục trong quá trình ấp. Sau khi trứng nở (khoảng 20-24 giờ), sử dụng ống siphon để thu ấu trùng mới nở và đếm số lượng để bố trí vào các bình thủy tinh để nuôi. 

Chăm sóc và quản lý Artemia được nuôi trong các bình thủy tinh chứa 2 lít nước mặn 30‰ với mật độ 100 con/L, đèn chiếu sáng với cường độ ~4000 lux và sục khí được duy trì liên tục trong suốt quá trình nuôi. Artemia sẽ được cho ăn mỗi ngày hai lần lúc 8 giờ và 16 giờ bắt đầu giai đoạn (Instar II) bằng tảo Chaetoceros sp. với mật độ là 50.000 tb/mL trong ngày đầu và tăng lên 100.000 tb/mL vào ngày thứ 2. Bắt đầu từ ngày thứ 3, Artemia được cho ăn theo năm loại thức ăn nêu trên.

Kết quả: Khẩu phần cho ăn với với 50% SCD từ rong câu và 50% thức ăn công nghiệp đạt kết quả tốt nhất về tỷ lệ sống và khả năng sinh sản của Artemia. Nghiên cứu trên cung cấp thông tin cơ sở để ứng dụng SCD từ rong câu thay thế một phần thức ăn góp phần giảm thiểu chi phí và nâng cao chất lượng trong quá trình ương nuôi các giai đoạn Artemia.

Theo Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ. 

Đăng ngày 19/09/2019
Như Huỳnh Lược dịch
Khoa học

Các công nghệ đếm con giống hiệu quả bạn nên biết

Trong ngành nuôi tôm, việc đếm số lượng tôm giống có vai trò vô cùng quan trọng, bởi sự thiếu sót hoặc dư thừa đều có thể gây tổn thất kinh tế đối với cả người bán và người mua. Cũng như điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất sản xuất trong tương lai.

Đếm con giống
• 08:00 15/04/2024

Mô hình nuôi tôm càng xanh toàn cái

Trong ngành nuôi tôm hiện đại, việc tối ưu hóa quy trình nuôi trồng không chỉ là một mục tiêu mà còn là một thách thức. Trong số các mô hình nuôi phổ biến, mô hình nuôi tôm toàn cái đang thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu và nhà nuôi.

Tôm càng xanh
• 09:55 11/04/2024

Môi trường dinh dưỡng và chu kỳ chiếu sáng đến sự phát triển của tảo

Tảo là nguồn thức ăn tự nhiên không thể thiếu trong tất cả các giai đoạn sinh trưởng của động vật thân mềm hai mảnh vỏ, giai đoạn ấu trùng của một số loài giáp xác và cá. Đồng thời chúng còn là nguồn thức ăn của động vật phù du, những đối tượng này lại được sử dụng làm thức ăn cho giai đoạn ấu trùng của giáp xác và cá.

Nuôi tảo
• 10:43 05/04/2024

Hạt Nano bạc có khả năng loại bỏ kim loại nặng trong nước

Kim loại nặng được coi là thành phần chính trong nước thải nuôi trồng thủy sản, gây ra rủi ro nghiêm trọng cho cả con người và môi trường. Do đó nghiên cứu loại bỏ kim loại nặng trong nước là cần thiết để đảm bảo nguồn nước sạch trong môi trường, ứng dụng rộng rãi trong đời sống và nuôi trồng thủy sản.

Nano bạc
• 10:53 03/04/2024

Điểm danh một số thị trường xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam

Chỉ tính riêng 2 tháng đầu năm 2024, điểm đến xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam vinh danh 3 thị trường quốc tế, đó là: Mỹ, EU và Israel.

Cá ngừ
• 23:01 16/04/2024

Con cà xỉu - Con vật lạ nhưng lại ngon

Cà xỉu là loài hải sản sống vùi dưới bùn, vùng nước lợ, bề ngoài kỳ lạ nhưng là món đặc sản ăn một lần nhớ mãi tuy nhiên được ít người biết đến.

Con cà xỉu
• 23:01 16/04/2024

Tình trạng kháng kháng sinh hiện nay trong nuôi trồng thủy sản

Trong ngành nuôi trồng thủy sản, việc sử dụng kháng sinh đã trở thành một vấn đề ngày càng phổ biến, đặc biệt là trong việc điều trị các bệnh ở tôm, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng. Tuy nhiên, việc lạm dụng kháng sinh đã dẫn đến một tình trạng lo ngại mới, đó là tình trạng kháng kháng sinh, khiến cho các bệnh do vi khuẩn trở nên khó điều trị hơn và tăng nguy cơ cho sức khỏe của tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 23:01 16/04/2024

Diệt rong đuôi chồn ở ao nuôi quảng canh

Rong đuôi chồn hay còn gọi là rong mép, là loại rong tơ, sợi mảnh, màu xanh lục, thường phát triển mạnh ở đáy ao nuôi tôm quảng canh. Một mặt, loại rong này là nguồn cung cấp thức ăn tự nhiên cho tôm. Tuy nhiên, khi chúng phát triển quá mức sẽ đe dọa đến sự sinh trưởng và phát triển của tôm quảng canh.

Rong đuôi chồn
• 23:01 16/04/2024

Lợi hay hại khi kháng sinh trở nên phổ biến hơn

Trong ngành nuôi trồng thủy sản ngày nay, việc áp dụng các sản phẩm xử lý và cải thiện môi trường bằng kháng sinh là không thể tránh khỏi. Kháng sinh là nhóm thuốc có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc được tổng hợp trong môi trường nhân tạo, có khả năng tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển của vi khuẩn, bao gồm cả các vi khuẩn có hại và lợi.

Tôm thẻ chân trắng
• 23:01 16/04/2024