Thức ăn phù hợp cho lươn đồng ương nuôi đến 40 ngày tuổi

Nghiên cứu của Lương Công Trung và cộng sự 2018 đã thực hiện để xác định loại thức ăn phù hợp cho ương lươn đến 40 ngày tuổi trong bể không bùn. Kết quả báo cao được đăng trên Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản số 2/2018.

Thức ăn phù hợp cho lươn đồng ương nuôi đến 40 ngày tuổi
Nuôi lươn không bùn ở Cần Thơ. Ảnh minh họa. Báo Cần Thơ.

Lươn đồng Monopterus albus là loài nhiệt đới, phân bố tự nhiên rộng khắp ở nhiều nước trên Thế giới. Ở các nước Đông Nam Á, lươn có rất nhiều ở Thái Lan, Myanmar, Việt Nam và Campuchia (Nguyễn Chung, 2007). Lươn sinh sống chủ yếu ở các thủy vực nước ngọt như ao, kênh, rạch, các dòng sông lớn, trong ruộng lúa hay ở đầm lầy, lươn cũng có thể sống ở trong các thủy vực nước lợ (Rainboth, 1996).

Ở Việt Nam, lươn được bắt gặp từ Bắc vào Nam, trong các ao, hồ, sông rạch, ruộng lúa nơi có nhiều mùn bã hữu cơ và sinh vật nhỏ làm thức ăn. Nhiều công trình nghiên cứu sản xuất lươn giống trong điều kiện nhân tạo đã được thực hiện và thành công và từ đó đã áp dụng trong thực tiễn sản xuất ở một số vùng có nghề nuôi lươn phát triển mạnh (An Giang, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh).

Một trong những trở ngại chính làm cho việc sản xuất lươn giống chưa được mở rộng phát triển mặc dù nhu cầu rất cao là hiệu quả ương giống thấp do thức ăn sử dụng chưa đảm bảo cung cấp đầy đủ dinh dưỡng và phù hợp với tập tính bắt mồi của lươn. Vì vậy đề tài này đã được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của một số loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của lươn ương nuôi đến 40 ngày tuổi, từ đó chọn loại thức ăn phù hợp đưa vào quy trình kỹ thuật sản xuất lươn giống đạt hiệu quả.

Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn đến lươn 20 ngày tuổi

Nghiên cứu được thực hiện tại trại cá giống Cát Tiến, Tiên Lãng, Hải Phòng. Lươn bố mẹ được tuyển chọn từ Vĩnh Long và cho sinh sản nhân tạo tại trại sau 6 tháng nuôi vỗ. Lươn sau khi nở 3 ngày (2,1 cm và 23,8 mg/con) được ương trong các chậu nhựa (ɸ: 36cm, cao 13cm).

Chậu ương được cấp nước ở dạng phun mưa với mực nước được duy trì từ 8-10cm. Nguồn nước cấp từ giếng khoan, qua hệ thống lọc thô và trữ trong các bể có thể tích 50m³, sau đó nước nước cấp vào chậu ương qua túi lọc, a = 100µm. Đáy chậu được lót các bó nilon xé nhỏ, chiếm 70% diện tích và chậu được sục khí liên tục.

Mật độ lươn, 30 con/0,1m² (300 con/m², Ngô Trọng Lư, 2008). Lượng cho ăn như nhau ở các chậu ương và được điều chỉnh theo cường độ bắt mồi của lươn. Chậu ương được thay nước 1 lần/ngày, 30-50% thể tích nước trong chậu, đồng thời chất thải và thức ăn thừa được xi phông ra ngoài. Thời gian thí nghiệm kéo dài đến khi lươn được 20 ngày tuổi. Lươn được cho ăn 04 lần/ngày: 7h, 10h, 14h và 17h, với 5 loại thức ăn khác nhau tương ứng 5 nghiệm thức thí nghiệm, gồm:

Nghiệm thức 1 : trùn chỉ 

Nghiệm thức 2 : moina; 

Nghiệm thức 3: moina + trùn chỉ + thịt cá xay nhỏ (thịt cá biển tươi) (tỷ lệ theo khối lượng tươi 1/3:1/3:1/3)

Nghiệm thức 4: thịt cá xay nhỏ 

Nghiệm thức 5: moina + trùn chỉ (tỷ lệ theo khối lượng tươi 1/2:1/2). 

Kết quả:

Chiều dài trung bình của lươn khi thu hoạch đạt 4,3-4,7 cm/con, trong đó chiều dài lớn nhất đạt được ở NT5 (moina + trùn chỉ) và thấp nhất ở NT3 (thịt cá xay).

Khối lượng trung bình của lươn thu hoạch lớn nhất ở trùn chỉ và moina + trùn chỉ, cao hơn so với khối lượng lươn ở nhóm sử dụng thức ăn là thịt cá xay. 

Tỷ lệ sống của lươn đạt cao ở tất cả các nghiệm thức, 84,7 – 95,8%, trong đó cao nhất ở nhóm lươn giống sử dụng thức ăn moina + trùn chỉ, tiếp đến là trùn chỉ.

Từ những kết quả thí nghiệm có thể kết luận moina kết hợp trùn chỉ là thức ăn phù hợp ương nuôi lươn đến 20 ngày tuổi. Có thể sử dụng chế độ cho ăn gồm moina trong khoảng 5-7 ngày đầu, sau đó chuyển dần sang cho ăn trùn chỉ đến 20 ngày tuổi.

Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn đến lươn 21 - 40 ngày tuổi 

Thí nghiệm được thực hiện trong các bể xi măng (2x2x1m), mực nước 80cm, đáy bể có đặt các bó dây nilon làm giá thể, chiếm 75-80% diện tích. Bể được sục khí liên tục và nguồn nước sử dụng tương tự thí nghiệm trước. Nguồn lươn thí nghiệm được sản xuất nhân tạo. Lươn bột thu từ sinh sản nhân tạo được ương trong bể xi măng, cho ăn moina và trùn chỉ đến 20 ngày tuổi, chọn cá thể đồng đều đưa vào thí nghiệm.

Lươn 21 ngày tuổi (4,6 cm và 0,067 g/con) được thả ngẫu nhiên vào các bể ương với mật độ giống nhau 200 con/m² (Ngô Trọng Lư, 2008). Lươn được cho ăn với 5 loại thức ăn khác nhau tương ứng 5 nghiệm thức thí nghiệm, gồm:

Nghiệm thức 1: trùn chỉ 

Nghiệm thức 2: thịt cá xay (thịt cá biển tươi); 

Nghiệm thức 3: thức ăn công nghiệp No ; 

Nghiệm thức 4: trùn chỉ + thức ăn công nghiệp No (tỷ lệ theo khối lượng khô 1/2:1/2) 

Nghiệm thức 5: thịt cá xay + thức ăn công nghiệp No (tỷ lệ theo khối lượng khô 1/2:1/2).

Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Lươn được cho ăn 2 lần/ngày vào 7h và 16h, tỷ lệ cho ăn 10% khối lượng lươn (tính theo khối lượng khô của thức ăn) và lượng cho ăn hàng ngày được điều chỉnh theo thực tế bắt mồi của lươn. Bể ương được thay nước 1 lần/ngày, 30-50% thể tích nước, đồng thời chất thải và thức ăn thừa được xi phông ra ngoài. Thời gian thí nghiệm kéo dài đến khi lươn đạt 40 ngày tuổi.

Kết quả:

Ở giai đoạn lươn 21- 40 ngày tuổi, chỉ cho ăn trùn chỉ lươn đạt tốc độ tăng trưởng chiều dài và tỷ lệ sống cao nhưng tăng trưởng khối lượng chậm hơn so với cho ăn kết hợp trùn chỉ với thức ăn công nghiệp. Thức ăn cho kết quả tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt ở lươn giai đoạn này là trùn chỉ kết hợp thức ăn công nghiệp No (CP Group ). Có thể áp dụng chế độ cho ăn kết hợp trùn chỉ với thức ăn công nghiệp, sau đó thay thể dần trùn chỉ cho đến khi lươn sử dụng thức ăn công nghiệp hoàn toàn. Việc này còn có tác dụng làm cho lươn quen hoàn toàn với thức ăn công nghiệp trước khi đưa vào nuôi thương phẩm.

Đăng ngày 25/04/2019
TH
Kỹ thuật

Tổng quan về công nghệ MBBR trong nuôi trồng thủy sản

MBBR là Moving Bed Biofilm Reactor, hứa hẹn là công nghệ xử lý nước thải ưu việt trong nuôi trồng thủy sản.

công nghệ MBBR
• 18:17 25/09/2021

Xử lý nước thải chế biến thủy sản bằng công nghệ SNAP

Xử lý nước thải chế biến thủy sản bằng công nghệ SNAP không chỉ loại bỏ hiệu quả nồng độ Ammonium mà còn xử lý đến 90% chất hữu cơ.

Chế biến cá tra
• 07:00 22/04/2020

Quan trắc nước nuôi trồng thủy sản bằng cảm biến nano

Sử dụng được cả trên bờ, dưới nước để quan trắc chất lượng nước, hệ thống cảm biến nano do Viện Công nghệ nano (INT) thuộc Đại học Quốc gia TPHCM nghiên cứu giúp người nuôi trồng thủy sản yên tâm khi chất lượng nước nuôi được cảnh báo tự động kịp thời khi có sự cố.

Quan trắc nước nuôi trồng thủy sản
• 14:35 05/02/2020

Lưu ý về môi trường trong ao nuôi tôm nước lợ

Quản lý môi trường ao nuôi tôm nước lợ là khâu quan trọng, đòi hỏi người nuôi có sự hiểu biết cần thiết về mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường và biến động của chúng.Từ đó, có biện pháp điều chỉnh phù hợp, giảm nguy cơ thiệt hại, góp phần vào thành công của vụ nuôi.

Lưu ý về môi trường trong ao nuôi tôm nước lợ
• 08:46 30/10/2019

Phân biệt tôm yếu gan, teo gan và hoại tử: Nhìn cho đúng để cứu tôm kịp thời

Thời gian gần đây, các bệnh về gan tụy trên tôm bùng phát mạnh khiến nhiều hộ nuôi "đứng ngồi không yên". Điều đáng nói là ranh giới giữa tôm mới chớm yếu gan và bệnh hoại tử chết sớm rất mong manh.

Tôm
• 09:00 08/12/2025

Các biện pháp phòng, trị bệnh thủy sản nuôi trong mùa mưa bão

Mùa mưa bão gây nhiều biến động lớn đến môi trường nước trong ao, đầm và lồng bè nuôi thủy sản. Những thay đổi này làm gia tăng nguy cơ bùng phát các dịch bệnh, gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi.

Ao tôm
• 09:00 25/11/2025

Chuyển giao kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chình trong bể xi măng

Nhằm giúp người dân đa dạng hóa mô hình nuôi trồng thủy sản, nâng cao thu nhập và phát triển sinh kế bền vững.

Lớp tập huấn
• 09:44 03/11/2025

Viêm ruột trên tôm: Nguyên nhân và cách phòng trị

Viêm ruột là một trong những bệnh phổ biến trên tôm nuôi, làm suy giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng, khiến tôm ăn kém, chậm lớn, còi cọc, và dễ mắc các bệnh cơ hội khác. Nếu không kiểm soát kịp thời, bệnh có thể gây tỷ lệ hao hụt cao và thiệt hại kinh tế lớn cho người nuôi.

tôm thẻ
• 14:51 24/10/2025

"Hóa chất vĩnh cửu" PFAS có trong thủy sản nhập khẩu

Một nghiên cứu mới vừa tiết lộ một rủi ro tiềm ẩn đáng báo động. Mạng lưới thương mại thủy sản toàn cầu đang vô tình hoạt động như một hệ thống phân phối khổng lồ, mang các "hóa chất vĩnh cửu" (PFAS) từ những vùng biển ô nhiễm đến bàn ăn của người tiêu dùng khắp thế giới.

Cá
• 15:35 26/12/2025

Xây dựng tiêu chuẩn phúc lợi đầu tiên cho cá basa Việt Nam

Trong bối cảnh Việt Nam cung cấp tới 90% lượng cá tra nhập khẩu toàn cầu, một quan hệ đối tác mới giữa các chuyên gia quốc tế và trong nước đã được khởi động. Mục tiêu là phát triển và công bố quy trình đánh giá phúc lợi đầu tiên cho cá basa, một bước đi nhằm nâng cao tính bền vững cho ngành hàng tỷ đô này.

Chế biến cá
• 15:35 26/12/2025

Tại sao tôm luộc lên thịt bị bở, không dai dù nhìn vẫn tươi?

Trong ẩm thực Việt, tôm luộc luôn được xem là món “thử lửa” độ tươi của nguyên liệu. Tuy nhiên, không ít trường hợp tôm sau khi luộc lại bị bở, nhão và nhạt vị, khiến nhiều người lầm tưởng nguyên nhân nằm ở cách nấu.

Tôm luộc
• 15:35 26/12/2025

Gia Lai hỗ trợ chuyển đổi nghề và giải bản tàu cá không đủ điều kiện khai thác

HĐND tỉnh Gia Lai vừa thông qua chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề và giải bản tàu cá không đủ điều kiện khai thác, nhằm tháo gỡ khó khăn cho ngư dân, bảo đảm an sinh xã hội và góp phần chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).

Tàu cá
• 15:35 26/12/2025

Khi ao nuôi "già" đi: Làm sao để phục hồi "trái tim" của hệ sinh thái đáy?

Trong nuôi tôm thâm canh, người nuôi thường chú trọng con giống, thức ăn mà bỏ quên đất đáy ao, hệ sinh thái quyết định sự bền vững. Vậy, làm sao nhận biết ao đã lão hóa và cách hồi sinh nền đáy kiệt quệ sau nhiều vụ nuôi?

Ao nuôi tôm
• 15:35 26/12/2025
Some text some message..