Nghiên cứu hiện tại đã đánh giá tác động của vi khuẩn Bacillus coagulans ở các nồng độ khác nhau: 0 (BO), 1 × 106 (BC1), 1 × 107 (BC2) và 1 × 108 (BC3) CFU/g thức ăn trong vòng 56 ngày, sau đó tiến hành cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus – nguyên nhân chính gây bệnh hoại tử gan tụy cấp (hội chứng chết sớm (EMS) trên tôm).
Kết thúc thí nghiệm tiến hành kiểm tra tốc độ tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn, hình thái ruột , hệ vi sinh đường ruột, phản ứng miễn dịch và khả năng chống lại nhiễm vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus ở tôm thẻ chân trắng.
Sau 56 ngày nuôi thử nghiệm, tỷ lệ sống dao động từ 83,33 - 94,17%, không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức chế độ ăn (P> 0,05).
Tôm trong nhóm BC2 cho thấy trọng lượng cuối cùng FW, WGR và SGR cao hơn đáng kể so với các nhóm còn lại. FCR thấp nhất được ghi nhận từ nhóm BC3, tiếp theo là nhóm BC2, BC1 và BO. Kết quả về thành phần cơ thịt gần giống nhau về hàm lượng protein và lipid ngoại trừ độ ẩm là ở các nghiệm thức bổ sung probiotic cho thấy thấp hơn so với đối chứng.
Việc bổ sung probiotic trong chế độ ăn uống cũng ảnh hưởng đến thành phần hệ vi sinh đường ruột. Ở cấp độ ngành, Proteobacteria chiếm phần lớn vi khuẩn, sau đó là Bacteroidetes. Ở cấp độ chi, sự phong phú của vi khuẩn gây bệnh cơ hội, chẳng hạn như Vibrio, Tenacibaculum và Photobacterium giảm đáng kể (P <0,05) với nồng độ probiotic tăng lên và nhóm BC3 gặp ít nhất.
Vi khuẩn Bacillus coagulans.
Ngoài ra, việc tăng cường đưa probiotic vào chế độ ăn uống đã điều chỉnh giảm lượng Muricauda, Kangiella và Shewanella ở tôm được quan sát thấy trong nhóm BC3. Tuy nhiên, vi khuẩn có lợi Pseudoalteromonas tăng đáng kể (P <0,05) trong ruột của tôm được cho ăn chế độ ăn BC3 (P <0,05) so với các nhóm khác bao gồm cả đối chứng.
So với đối chứng, sự gia tăng đáng kể (P <0,05) của các nhóm được xử lý bằng probiotic hoạt tính của lysozyme (LYZ), acid phosphatase (ACP), superoxide dismutase (SOD), tổng số protein (TP), albumin (ALB) trong huyết thanh, glutathione peroxidase(GSH-Px) trong huyết thanh và gan, làm giảm đáng kể triglycerid(TG) trong huyết thanh và Malondialdehyde (MDA) trong huyết thanh và gan.
Tăng cường xử lý probiotic giúp cải thiện khả năng tiêu hóa, do đó gia tăng hoạt động của lipase, amylase, trypsin và gia tăng chiều cao, chiều rộng, độ dày của long nhung đường ruột.
Sau 14 ngày thử thách với V. parahaemolyticus, tỷ lệ tử vong tích lũy thấp hơn đáng kể ở nhóm được xử lý so với nhóm không xử lý. Tỷ lệ chết cao nhất ở nghiệm thức đối chứng 83,3%; 43,3%; 36,7% và 20% lần lượt là BO, BC1, BC2 và BC3. Tỷ lệ phần trăm sống sót tương đối (RPS%) cao nhất trong BC3 (76%), tiếp theo là BC2 (56%) và BC1 (48%). Qua đó thấy được việc bổ sung probiotics đã tăng cường sức đề kháng của tôm chống lại V. Parahaemolyticus.
Kết luận, mức probiotic 1 × 108 CFU/g thức ăn (BC3) trong khẩu phần ăn có thể tăng cường sự phát triển, hình thái đường ruột và hệ vi sinh đường ruột, đáp ứng miễn dịch và khả năng chống lại Vibrio parahaemolyticus trên tôm thẻ chân trắng.