Streptococcus iniae và S. agalactiae là vi khuẩn gram dương gây bệnh cho cá nuôi và cá hoang dã. Chúng có hình cầu và đường kính 0,5-2,0 μm. Chúng xuất hiện thành cặp hoặc chuỗi khi phát triển trong môi trường lỏng, không di động và không hình thành bào tử. Chúng kỵ khí tùy ý, đòi hỏi môi trường giàu dinh dưỡng để phát triển và thường tấn công tế bào hồng cầu để tạo ra sự đổi màu xanh lục (phân hủy α) hoặc làm sạch hoàn toàn (phân hủy β) trên môi trường thạch máu. Cả hai loại vi khuẩn đều có thể gây lo ngại về bệnh lây truyền từ động vật sang người.
S. iniae lây nhiễm cho những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch khi xử lý cá sống. Phân tích bộ gen so sánh của các chủng phân lập cho thấy các chủng S. agalactiae ở người có trong cá, ếch và động vật thủy sinh, do đó có nguy cơ tiềm ẩn gây bệnh cho con người. S. iniae là một trong những mầm bệnh chính ảnh hưởng đến các loài cá ở nhưng khu vực nước ấm vào cuối những năm 1990 và 2000. Hiện nay, S. agalactiae đã nổi lên như là mầm bệnh chính ở cá rô phi nuôi ở Châu Á, Latin và Nam Mỹ. Tổn thất tiền tệ hàng năm trên toàn thế giới do những mầm bệnh này ban đầu được đánh giá thấp ở mức 100 triệu USD. Chỉ riêng Trung Quốc đã chiếm khoảng 40% sản lượng cá rô phi toàn cầu (~3 tỷ USD) và các nhà sản xuất Trung Quốc đã báo cáo thiệt hại từ 30–80% do S. agalactiae. Giả sử mức lỗ trung bình hàng năm là 40%, con số đó tương đương với khoảng 1 tỷ USD doanh thu bị mất chỉ riêng ở Trung Quốc.
Phân bố địa lý
S. iniae và S. agalactiae phân bố trên toàn thế giới và lây nhiễm sang hơn 27 loài cá, bao gồm cả cá rô phi. Cả hai mầm bệnh đều ảnh hưởng đến các loài hoang dã và nuôi ở vùng nước ngọt, nước lợ và nước biển.
Cá bị mắt lồi do nhiễm bệnh. Ảnh: aquaculture
Nguyên nhân của bệnh
Căng thẳng thường là yếu tố ảnh hưởng chính của căn bệnh này. Một số yếu tố gây căng thẳng có liên quan đến sự bùng phát bệnh Streptococcosis bao gồm nhiệt độ nước nằm ngoài phạm vi tối ưu (24–30°C), độ mặn và độ kiềm cao, lượng oxy hòa tan (DO) thấp, mật độ thả cá cao và tỷ lệ cho ăn cao. như ảnh hưởng của việc thu hoạch (lưới và xử lý).
Đồng nhiễm với ký sinh trùng bên ngoài (ví dụ: nhiễm ký sinh trùng Trichodina, Gyrodactylus và Ichthyophthirius) cũng rất phổ biến.
Chẩn đoán
Dấu hiệu lâm sàng của bệnh: Các dấu hiệu lâm sàng khác nhau tùy theo loài cầu khuẩn, loài và kích thước của vật chủ bị ảnh hưởng. Nhìn chung, cá trở nên lờ đờ và bơi lội thất thường hoặc theo kiểu xoắn ốc do hậu quả của bệnh viêm màng não. Chứng lồi mắt một hoặc hai bên (mắt lồi), có xuất huyết và đục giác mạc ở mắt. Xuất huyết ở thân. Phù nề do tích tụ dịch huyết thanh trong khoang phúc mạc và ruột. Gan nhợt nhạt và tỳ tạng màu đỏ sẫm là những dấu hiệu lâm sàng phổ biến nhất. Mụn mủ ở hàm và đuôi đối với cá rô phi nhiễm S. iniae đã chết và còn sống. Các tổn thương tương tự cũng liên quan đến nhiễm trùng S. agalactiae, cùng với chứng liệt miệng.
Trong một số trường hợp, cá bị nhiễm bệnh không có dấu hiệu lâm sàng rõ ràng trước khi chết và cá chết được cho là do nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng não và hệ thần kinh. Khi nhiễm trùng tiến triển, một phần đáng kể cá có thể trở nên chán ăn và không chịu ăn. Kiểm tra bên trong khoang bụng cho thấy một lượng lớn dịch có màu máu, tỳ tạng sưng to và có màu đỏ sẫm, gan nhợt nhạt và lắng đọng fibrin trong tim. Mô bệnh học cho thấy tình trạng hoại tử lan rộng và viêm u hạt ở nhiều hệ thống cơ quan, bao gồm cả đầu và thân thận.
Cá rô phi
Chẩn đoán nhiễm trùng: Chẩn đoán dựa vào nuôi cấy vi khuẩn trên đĩa thạch 5% máu cừu. Thận và não của cá tươi thường là nguồn nuôi cấy vi khuẩn tốt nhất. Các hệ thống xét nghiệm nhanh thu nhỏ rất hữu ích và S. agalactiae có thể dễ dàng được xác định bằng bộ xét nghiệm API 20 Strep và API rapid ID 32 Strep. Các bộ dụng cụ thương mại có thể được sử dụng để thu được thông tin sinh hóa, nhưng không phải lúc nào cũng có thể đạt được kết quả nhận dạng tích cực chỉ với các hệ thống này. Sự xác nhận nên được thực hiện bằng phương pháp phân tử.
Chẩn đoán sơ bộ: Chẩn đoán sơ bộ về Streptococcus có thể được thực hiện dựa trên bệnh sử và các dấu hiệu lâm sàng, kết quả kiểm tra bằng kỹ thuật kính phếch mẫu bệnh phẩm từ não, tỳ tạng, thận hoặc gan là xác định vi khuẩn Gram dương.