Chúng có càng không đối xứng. Càng bên phải có răng cong gần gốc ngón tay trên, cua sẽ cắm vào lỗ của ốc sên và sử dụng nó giống như một cái mở hộp để cắt một kênh xung quanh lỗ. Càng bên trái, thon hơn với các ngón tay giống như kìm, sau đó sẽ được sử dụng để lấy ốc sên ra khỏi vỏ của nó.
Giống như các loài cua thực sự khác, cúm núm có mai rộng và bụng rất ngắn và dẹt thường được gấp lại bên dưới cơ thể. Chúng cũng có năm cặp "chân" (bao gồm cả tay có vuốt), và do đó chúng được xếp vào bộ Decapoda ("deca" có nghĩa là "mười", trong khi "poda" có nghĩa là "bàn chân"). Mang giống như lá - một đặc điểm riêng biệt của decapod thuộc phân bộ Pleocyemata. Và giống như các loài giáp xác khác thuộc lớp Malacostraca, cơ thể của chúng bao gồm ba phần chính - đầu có năm đốt, ngực có tám đốt và bụng có sáu đốt. Đầu hợp nhất với ngực, tạo thành đầu ngực. Chúng có bộ xương ngoài cứng được gia cố bằng canxi cacbonat, và mai bao phủ mang nhưng không bao phủ bụng.
Cúm núm đều đào hang giỏi và được tìm thấy trên các nền đất cát đến bùn. Những con lớn hơn thường được người dân địa phương bắt làm thức ăn nhưng hiếm khi được bán ở chợ do số lượng đánh bắt được có hạn. Chúng sinh sản hữu tính và có giới tính riêng biệt. Con cái thường có thể phân biệt với con đực bằng cách có bụng rộng hơn. Đây là một sự thích nghi cho phép chúng mang trứng dưới bụng cho đến khi trứng nở.
Calappa philargius thường sống nhiều ở các tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam. Ở Trung Quốc loài ngày càng được tiêu thụ nhiều, chủ yếu lấy càng. Chúng phân bố ở phía nam eo biển Đài Loan của Trung Quốc. Ở phía nam eo biển Đài Loan của Trung Quốc, C. philargius là loài cua phổ biến trong cả đánh bắt bằng lưới kéo và bẫy. Kích cỡ lớn nhất khoảng bằng 4 ngón tay của người lớn. Tuy mình cúm núm ít thịt, thịt chủ yếu ở hai cái càng nhưng lại thơm ngon đậm đà, cúm núm chắc, có nhiều gạch (trứng) là trong khoảng thời gian từ giữa mùa đông đến ra giêng.
Hình: (A) Góc nhìn lưng của Calappa philargius để đo chiều rộng mai (CW) và chiều dài mai (CL). Xác định giới tính bằng hình thái bụng: (B) con cái và (C) con đực. (D) Trứng màu vàng, (E) trứng màu cam đỏ và (F) trứng màu nâu đo dưới kính hiển vi
Cúm núm sinh trưởng nhiều và ngon nhất là trong khoảng thời gian từ đầu mùa xuân đến hết hè. Đây là lúc những con cúm cho thịt chắc, ngọt và có nhiều gạch đầy hấp dẫn. Cúm núm sống ven biển gần bờ nên đánh bắt chúng khá dễ, chỉ cần thả mồi dụ chúng bu lại thành đàn là có thể dùng vợt xúc, hoặc canh những con cúm theo sóng biển tràn lên bờ, khi sóng rút chúng đùn xuống cát, nhanh tay moi cát là dễ dàng bắt được. Đến mùa cúm múm, hầu hết ngư dân hành nghề lưới cước ở các xã ven biển huyện Bình Sơn đều đánh bắt, song nhiều nhất là ngư dân hành nghề lưới ghẹ.
Cúm núm có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon như: Rang me, nướng, hấp. Thông thường món cúm núm hấp sả ớt được người dân ưa chuộng nhất vì vừa ngon vừa đơn giản. Cúm núm khác với cua ghẹ, những cái ngoe rất nhỏ và mềm nên phải dùng chiếc đũa đâm vào phần dưới yếm để tách ra. Cúm núm chứa đầy gạch, gỡ ra Cúm được tách mai, vặt hết càng và que sau khi đã rửa sạch. Bắc chảo với một ít dầu lên bếp, đợi nóng thì bỏ cúm vào rang với muối.
Bên cạnh cúm núm còn rất nhiều loài cua đánh bắt để lấy càng. Nghề đánh bắt cua chỉ có càng đã được phát triển từ những năm 1970 và thường được coi là nghề đánh bắt có thể tái tạo. Thông thường, sau khi thu thập càng trên tàu, cua đã cắt càng sẽ được thả ra. Kiểu đánh bắt này bao gồm cua đỏ Chaceon affinis (Geryonidae) ở Đông Bắc Đại Tây Dương, cua nâu Cancer pagurus (Cancridae) ở Ireland, cua đá Menippe spp. (Menippidae) tại Hoa Kỳ, cua Jonah Cancer borealis (Cancridae) tại Hoa Kỳ, và cua vĩ cầm châu Âu Uca tangeri (từ đồng nghĩa của Afruca tangeri) (Ocypodidae) chỉ dành cho con đực ở miền nam Bồ Đào Nha, tất cả chủ yếu được đánh bắt bằng bẫy. Tuy nhiên, tỷ lệ cua tái sinh càng và quay trở lại ngư trường thương mại là rất nhỏ; ví dụ chỉ có 7–13% càng tái sinh được đưa vào ngư trường M. mercenaria ở Florida, Hoa Kỳ. Tỷ lệ tử vong liên quan với việc loại bỏ hai càng là cao ở M. mercenaria và C. borealis, lần lượt là 28–100% và 70%. Tuy nhiên, việc tuân thủ tự nguyện các quy định đánh bắt bằng một càng không phải là phổ biến và việc đóng cửa theo mùa để bảo vệ đàn cá sinh sản có thể là biện pháp quản lý tốt hơn.