1. Nghiên cứu của Trung tâm Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ (CIBA-ICAR) Ấn Độ.
Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng đầu tiên về giun nhiều tơ (Polychaete worms) là một vector thụ động của hội chứng đốm trắng cho tôm Sú bố mẹ (Penaeus monodon).
Nghiên cứu dựa trên những con giun nhiều tơ sống, Marphysa spp., Thu được từ các nhà cung cấp, ngư dân, cũng như các mẫu thu thập được từ 8 trạm trên bờ biển phía bắc của Tamilnadu (Ấn Độ). Tôm Sú bố mẹ với buồng trứng không phát triển, được thí nghiệm lây nhiễm WSSV bằng cách cho ăn giun nhiều tơ, loài này đã mang WSSV trước đó.
50% giun nhiều tơ có được từ các nhà cung cấp giun được phát hiện là dương tính WSSV bằng PCR 2 bước. Trong số 8 trạm nghiên cứu, 5 con giun dương tính với WSSV với tỷ lệ nhiễm từ 16,7 đến 75%. Giun nhiều tơ thu được từ các khu vực gần các trang trại nuôi tôm cũng cho thấy tỉ lệ nhiễm cao hơn.
Các thí nghiệm thử thách trong phòng thí nghiệm đã khẳng định các quan sát được > 60% giun nhiều tơ tiếp xúc với WSSV được chứng minh là dương tính WSSV sau 7 ngày tiếp xúc. Người ta cũng xác nhận rằng tôm bố mẹ có thể bị nhiễm WSSV bởi thức ăn giun nhiều tơ mang mầm bệnh WSSV. Mặc dù nghiên cứu này chỉ cho thấy sự lây nhiễm ở mức độ thấp ở các loài thực vật hoang dã hoang dã nhưng các thí nghiệm này cũng cho thấy rõ ràng khả năng chuyển WSSV từ thức ăn sống sang tôm bố mẹ, giun nhiều tơ có thể đóng một vai trò trong dịch tễ học của WSSV.
2. Nghiên cứu của Trường Đại học Thủy sản,Trung Quốc.
Virus hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bởi phương pháp PCR trong luân trùng và trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích ao nuôi tôm.
Vi rút hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bằng phương pháp PCR-dot blot hybridization trong trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích tôm nuôi tôm He Trung Quốc (Penaeus chinensis). Nó cũng được phát hiện trong luân trùng được nở từ những quả trứng đó. Kết quả cho thấy trứng nghỉ có thể là một vật mang cho WSSV trong ao nuôi tôm.
3. Thí nghiệm của Viện Hải dương học, Học viện Khoa học Trung Quốc.
Nghiên cứu về sự lây lan của WSSV (virus hội chứng đốm trắng) ở tôm càng xanh (Marsupenaeus japonicus) thông qua vi tảo biển.
Để chứng minh được khả năng vi tảo biển biển mang WSSV, 6 loài vi tảo biển (Isochrysis galbana, Skeletonema costatum, Chlorella sp., Heterosigma akashiwo, Scrippsiella trochoidea, Dunaliella salina) đã được nuôi cấy với tôm He Nhật Bản trưởng thành (Marsupenaeus japonicus). WSSV được khảo sát hàng ngày bằng PC-nested để nghiên cứu liệu chúng có thể mang WSSV hay không. Các thí nghiệm tiếp theo đã được tiến hành để điều tra xem vi khuẩn có mang vi khuẩn có thể tái nhiễm trên tôm con. Kết quả cho thấy rằng tất cả các vi tảo biển thực nghiệm, ngoại trừ H. Akashiwo còn lại có thể mang WSSV, và trong số đó, Chlorella sp. Và S. trochoidea có khả năng mang WSSV mạnh nhất. Không giống như những sinh vật mang không xương sống khác của WSSV, các phát hiện của WSSV trong vi tảo biển, có kết quả dương tính sau 1 và 3 ngày, âm tính sau 10 ngày nuôi cấy.
Kết quả phát hiện WSSV ở tôm con M. japonicus cho thấy con tôm đã bị lây nhiễm từ Chlorella sp. Mặc dù tôm con M. Japonicus chỉ mang một lượng WSSV nhỏ đến mức chỉ có thể được phát hiện bởi nested-PCR. Kết quả của thí nghiệm này cho thấy vi tảo có thể là một con đường truyền tải ngang có thể cho WSSV. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm để hiểu rõ hơn về các yếu tố khả năng mang khác nhau và các cơ chế mang vi rút của các loài vi tảo khác nhau.
Những vật mang mầm bệnh khác