Qua khảo sát thực tế, hiện tượng gù lưng, vẹo xương sống xuất hiện cá rô đồng, cá lóc, cá trê vàng, chủ yếu là vẹo xương sống phần lưng sau đầu. Do ngoại hình biến dạng, giá trị hàng hoá giảm thấp, nên khi thu mua, thương lái thường ép giảm 20 – ≥ 40 % giá thu mua thực tế, gây thất thu rất lớn cho người nuôi.
Nguyên nhân do đâu?
Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng, làm cá nuôi bị gù.
Con giống là nguyên nhân đầu tiên được đề cập. Xuất phát từ yếu tố di truyền trong chọn giống, lỏng lẻo trong khâu tuyển chọn bầy cá hậu bị làm cá bố mẹ; bỏ qua giai đoạn nuôi vỗ hoặc nuôi vỗ không đúng kỹ thuật; chăm sóc cá hậu bị, cá bố mẹ, không tốt. Người nuôi ít quan tâm yếu tố dinh dưỡng trong từng giai đoạn; chất lượng môi trường nuôi dưỡng không đảm bảo, thông số môi trường luôn biến động…
Nguyên nhân thứ hai là việc người nuôi lạm dụng thuốc, hoá chất trong quá trình ương, nuôi cá. Chưa có nhiều nghiên cứu sâu cho thấy các loại thuốc kích dục tố dùng kích thích cá sinh sản như HCG, LH-RHa, Não Thuỳ, Prolan B…ảnh hưởng ra sao đến chất lượng trứng, cá bột, cá hương, cá giống, đến tỷ lệ cá dị hình, dị tật.
Các loại hoá chất cải tạo ao, hồ, thuốc xử lý nước, xử lý môi trường, thuốc sổ lãi, đặc biệt thường xuyên sử dụng kháng sinh trong phòng, trị bệnh. Ngoài những kháng sinh chuyên biệt dùng trong nuôi thuỷ sản, người nuôi còn sử dụng kháng sinh dùng cho người, kháng sinh nguyên liệu, kháng sinh không rõ nguồn gốc. Liều dùng tăng dần sau mỗi lần cá bệnh, dùng 2, 3, thậm chí 4 loại thuốc kháng sinh phối hợp với nhau nhưng không nắm rõ cơ chế phối hợp thuốc.
Song, không thực hiện giải độc gan cho cá sau khi dùng kháng sinh, gây khó khăn cho cơ chế tiết enzym, giảm chức năng tiêu hoá, hấp thu, chuyển hoá thức ăn, biến dưỡng Protein của gan. Chính việc sử dụng thuốc kháng sinh lạm dụng, là nguyên nhân làm cá phân đàn, tăng trưởng chậm, thời gian nuôi kéo dài, tỷ lệ gù cao, tỷ lệ sống thấp, FCR cao.
Nguyên nhân được quan tâm nhiều nhất là yếu tố dinh dưỡng hay thức ăn cho cá. Nuôi thâm canh các loài cá trên, người nuôi sử dụng ≥ 90% thức ăn công nghiệp, thức ăn tự chế biến chủ yếu sử dụng giai đoạn cá bột, cá hương. Mặc dù trong công thức sản xuất thức ăn công nghiệp cho cá nuôi nước ngọt, bộ phận R&D các công ty đã tính toán đầy đủ thành phần, tỷ lệ hợp lý các nguyên liệu khi phối trộn, để các loài cá nuôi sử dụng đảm bảo đủ nhu cầu dinh dưỡng, đủ chất, phù hợp với đặc tính sinh học mỗi loài, đáp ứng tối đa nhu cầu cho quá trình phát triển.
Thức ăn không phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng của cá cũng là nguyên nhân khiến cá bị cong vẹo cột sống. Ảnh: Planetofplenty
Tuy nhiên, do công nghệ sản xuất, chất lượng nguyên liệu, tỷ lệ thay thế đạm động vật bằng đạm thực vật, tỷ lệ chất xơ, cellulose...ảnh hưởng không nhỏ đến việc hấp thu, chuyển hoá thức ăn. Mặt khác, nuôi thâm canh mật độ cao, tuỳ giai đoạn nuôi, môi trường nước ao nuôi bắt đầu ô nhiễm từ tháng nuôi thứ hai, khí độc trong ao tăng dần.
Bản chất hiện tượng vẹo xương sống trên cá
Nên biết, sức khoẻ cá phụ thuộc vào chất lượng giống, mật độ thả nuôi, chất lượng thức ăn, chế độ cho ăn và quản lý thức ăn, chất lượng môi trường, thời tiết, khí hậu, tình trạng ao, hồ nuôi. Nếu sử dụng thức ăn đạm cao, thức ăn nhiều chất béo, không phù hợp giai đoạn phát triển sẽ xảy ra tình trạng phát triển mất cân đối giữa thịt và xương cá.
Thịt cá phát triển nhanh, trong khi bộ xương nâng đỡ cơ thể phát triển chậm, dẫn đến phần xương bị co rút do lượng thịt sinh ra quá nhiều, quá sức tải của khung xương... Những vấn đề đề cập trên, ảnh hưởng đến quá trình tiết enzyme tiêu thụ, hấp thu, chuyển hoá thức ăn.
Xương cá bị cong vẹo do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ảnh: medicalxpress
Mặt khác, một số chất trong thành phần thức ăn, do nguyên nhân trên, không được cá hấp thu đầy đủ dẫn đến chuyển hoá thiếu. Phospho là thành phần muối khoáng, cấu tạo nện bộ xương cá, ngoài ra, phospho tham gia một số hoạt động biến dưỡng. Tỷ lệ Phospho hấp thu từ môi trường nước qua mang ở cá chỉ chiếm 1/40 so với calci, chủ yếu hấp thu qua thức ăn. Thiếu phospho cùng với phát triển mất cân đối giữa thịt cá và xương cá… ảnh hưởng đến hình thành bộ xương, cột sống biến dạng, xương đầu dị dạng.
Phòng bệnh hơn trị bệnh
Để hạn chế, giảm tỷ lệ cá nuôi bị gù, việc chọn cá bột, cá hương, cá giống thả nuôi rất quan trọng, nên chọn bầy cá bố mẹ từ các đàn khác nhau, có nguồn gốc rõ ràng, kích cỡ cá giống đồng đều, khoẻ mạnh, bơi lội linh hoạt.
Chọn cá giống đồng kích cỡ, linh hoạt, khỏe mạnh. Ảnh: lipetsk.fishretail.ru
Nói không với lạm dụng hoá chất, kháng sinh. Hạn chế phối trộn nhiều loại thuốc khi chưa nắm rõ hoạt tính dược lực, chỉ định sử dụng, đặc biệt là tương tác thuốc giữa các nhóm kháng sinh, đề kháng kháng sinh. Tránh việc sử dụng thuốc quá nhiều gây tốn kém chi phí, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển cá nuôi, nhưng hiệu quả điều trị thấp.
Khi cần thiết sử dụng, bà con nên dùng kháng sinh trong danh mục nuôi thuỷ sản cho phép sử dụng, dùng đúng liều khuyến cáo, giới hạn thời gian điều trị không quá 5 ngày, đảm bảo thời gian bài thải thuốc trước khi xuất bán. Sau thời gian dùng kháng sinh, bà con cần tập trung giải độc gan bằng các chất như Sorbitol, Methionine, Choline, Inositol. Sau khi giải độc gan, hỗ trợ thêm chất tăng cường đề kháng như Beta glucan, Lipopolysaccharide, Peptidoglycan, vitamin C, B12…
Riêng yếu tố dinh dưỡng, khi nuôi cá thâm canh, ngoài thức ăn công nghiệp, bà con cần hỗ trợ thêm dinh dưỡng bằng cách sử dụng acid hữu cơ như acid lactic, acid formic, acid butyric, acid propionic… trộn vào thức ăn giúp hạ pH dạ dày và tuỵ tạng cá giảm thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế tiết Enzyme tiêu hoá của Pepsin và Trypsin trong quá trình tiêu hoá Protein.
Bổ sung các Enzyme hỗ trợ tiêu hoá khác như Protease, Lypase, Amyllase, Cellulace, Chitinnase. Đặc biệt, Enzyme Phytase, liều dùng 670 mg/kg thức ăn, giúp tiêu hoá tốt phospho, tăng hàm lượng phospho trong xương, tăng tỷ lệ hấp thu và lưu giữ phospho trong cơ thể. Bổ sung khoáng hữu cơ Metal (Specific Amino Acid) complex; Metal Amino Acid Chelate, khoáng đa lượng như Ca, P …Trộn hỗn hợp Calci/Phospho, vitamin C, D, premix vào thức ăn.
Riêng thức ăn cho cá lóc, cần điều chỉnh hàm lượng đạm trong thức ăn theo tháng nuôi. Theo đó, tháng nuôi thứ nhất sử dụng đạm 45%, tháng nuôi thứ hai sử dụng đạm 43 %, từ tháng nuôi thứ ba trở đi, sử dụng đạm 40 %. Sử dụng thức ăn chứa chất béo hợp lý, để cá phát triển cân đối giữa thịt và xương.