Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là loài giáp xác nước ngọt có kích thước lớn, giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, được thị trường ưa chuộng. Ở Việt Nam, tôm càng xanh phân bố chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và hiện đang được nuôi phổ biến trong ao, mương vườn, đặc biệt là trên ruộng lúa ở vùng ngập lũ thuộc các tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Cần Thơ. Tuy nhiên, ở Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều vùng bị nhiễm phèn, pH đất và nước thấp,…ảnh hưởng xấu đến sự phát triển và tỉ lệ sống của tôm càng xanh. Do đó, biện pháp sử dụng chất kích thích miễn dịch như β-glucan, quercetin, MOS (Mannan Oligosaccharide)…và có một phương pháp phổ biến là sử dụng probiotics cho tôm.
Clostridium butyricum là vi khuẩn kỵ khí bắt buộc, gram dương, thường được tìm thấy trong đất và phân và hệ vi khuẩn đường ruột của người và động vật.
So với các chế phẩm sinh học khác như Bacillus, Lactobacillus và nấm men thì C. butyricum có khả năng chịu được môi trường có độ pH, nhiệt độ cao hơn và chịu được nhiều loại kháng sinh. Ngoài ra, C. butyricum cũng có thể sản xuất một số chất chuyển hóa có thể ức chế vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào đường ruột, chẳng hạn như bacteriocin (Clarke và Morris, 1976) và axit lipoteichoic (Gao et al., 2011). Các axit béo mạch ngắn, đặc biệt là axit butyric được sản xuất bởi C. butyricum có thể cung cấp các chất dinh dưỡng cho quá trình tái tạo và sửa chữa tế bào biểu mô ruột (Pryde et al., 2002).
Emodin là một hợp chất hóa học có thể được phân lập từ đại hoàng Himalaya, cây hắc mai và cây bần Nhật Bản. Emodin cũng được sản xuất bởi nhiều loài nấm, bao gồm các loài của chi Aspergillus, Pyrenochaeta và Pestalotiopsis.
Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá các tác động riêng lẻ và kết hợp của emodin và Clostridium butyricum đối với sự tăng trưởng và khả năng miễn dịch không đặc hiệu của tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) trong tám tuần với trọng lượng cơ thể ban đầu là 0,19 ± 0,5 g.
Chín chế độ ăn được chuẩn bị để chứa ba mức emodin (0,25 và 50 mg/kg) và ba mức C. butyricum (0,250 và 50 mg/kg, 2×107CFU/g). Các chế độ ăn kiêng được đặt tên là 0/0, 250/0, 500/0, 0/25, 250/25, 500/25, 0/50, 250/50 và 500/50 ( C. butyricum/emodin), tương ứng.
Kết quả cho thấy hiệu quả tương tác đối với việc tăng trọng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn đã được quan sát thấy ở nghiệm thức tôm được cho ăn chế độ ăn có chứa 250mg/kg C. butyricum và 50mg/kg emodin. Ngoài ra, tăng trọng và tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR) của tôm được cho ăn 250mg/kg C. butyricum đều cao hơn đáng kể ( P<0,05) so với các phương pháp điều trị khác liên quan đến C. butyricum.
Ngoài ra các quá trình tổng hợp nitric oxide (iNOS) và hoạt động hô hấp cao hơn quan sát thấy khi tăng nồng độ emodin trong khẩu phần ăn. Các hoạt động Aspartate aminotransferase (AST) và tổng protein (TP) được cải thiện với mức độ tăng dần của C. butyricum (P<0,05). Hơn nữa, các chỉ tiêu miễn dịch interferon-(INF-), IL-1, TNF-α và IL-6 đã được tăng cường bởi emodin trong chế độ ăn uống và sự tương tác của C. butyricum và emodin.
Nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng các tác dụng riêng lẻ hoặc kết hợp của C. butyricum và emodin có thể cải thiện đáng kể hiệu suất tăng trưởng và cải thiện tình trạng chống oxy hóa của tôm càng xanh M. rosenbergii. Sự kết hợp tối ưu của các thành phần này lần lượt là 250mg/kg C. butyricum (2×107 CFU/g) và 5mg/kg emodin.