Mới: Tiềm năng vaccine bổ sung vào thức ăn cho cá biển

Các trại nuôi tự điều chế vắc xin và tự cung cấp cho trang trại sẽ mang lại nhiều lợi thế về hiệu quả bảo vệ, kinh phí và có tính ứng dụng cao không cần nhiều kỹ thuật phức tạp. Dưới đây là thử nghiệm tự sản xuất vắc xin cho ăn đối với cá biển tại một trang trại ở Malaysia.

cá mú
Cá mú thuộc loại cá biển, chúng được xem là loại cá dữ bởi có hàm to, răng sắc nhọn và là động vật ăn thịt. Ảnh reefcolors

Tạo vắc xin 

Vi khuẩn V. harveyi VH1 được phân lập từ da, gan, thận của cá mú bệnh, sau đó các tế bào vi khuẩn VH1 này được bất hoạt bởi formalin, các tế bào sau khi bất hoạt được rửa bốn lần bằng PBS vô trùng bằng cách ly tâm ở 6000 vòng/phút trong 15 phút để loại bỏ môi trường và formalin. Để bảo đảm an toàn, các vi khuẩn bất hoạt này được cấy trở lại môi trường xem có xuất hiện sự sống, nhằm xác nhận rằng tất cả các tế bào vi khuẩn đã bị bất hoạt. Như vậy loại vắc xin được sử dụng trong thử nghiệm là vắc xin bất hoạt (nactivated/ killed vaccine), là loại vắc xin truyền thống, công nghệ sản xuất đơn giản và có thể sản xuất với quy mô lớn.

Trước khi sử dụng các tế bào vi khuẩn đã được xác nhận bất hoạt hoàn toàn, sau đó vi khuẩn bất hoạt được trộn vào thức ăn viên với liều lượng 10% (tương đương 106 CFU/g thức ăn). Cá được cho ăn thức ăn bổ sung vắc xin ở ngày 0, ngày 14 (liều nhắc lại), ngày 42 (liều nhắc lại) trong 5 ngày liên tục với 4% trọng lượng cơ thể.

Thử nghiệm nuôi trên bể

Cá chẽm (Lates calcarifer) được cho ăn thức ăn bổ sung vắc xin sau 70 ngày thì được gây bệnh với các chủng vi khuẩn gây bệnh V. harveyi VH1, V. parahaemolyticus VPK1, V. alginolyticus VA2.

Kết quả cụ thể, sau khi cá ăn thức ăn có bổ sung vắc xin V. harveyi chủng VH1, thì giá trị kháng thể IgM tăng lên đáng kể và khác biệt so với nhóm đối chứng không bổ sung vắc xin (p <0,05) ở ngày 7. Sau khi bổ sung liều nhắc lại vào ngày 14, nồng độ IgM của các nhóm điều trị chống lại V. harveyiV. parahaemolyticus tăng lên (p <0,05) cho đến ngày 35 và đạt giá trị cao nhất; trong khi ở V. alginolyticus, IgM giảm nhẹ ở ngày 28 và tăng trở lại ngày 42.

Tuy nhiên, giá trị IgM vẫn cao hơn có ý nghĩa (p> 0,05) ở nhóm nhóm điều trị so với nhóm đối chứng. Sau liều nhắc lại thứ hai vào ngày 42, nồng độ IgM chống lại V. harveyiV. alginolyticus tăng đáng kể (p <0,05) vào ngày 49, trong khi đối với V. parahaemolyticus, chúng tăng vào ngày 63 và mức kháng thể trong nhóm điều trị vẫn cao hơn đáng kể (p <0,05) so với nhóm đối chứng chống lại V. harveyi, V. parahaemolyticus V. alginolyticus

cá mú
Cá mú nhiễm bệnh Vibriosis có dấu hiệu mất vảy, loét da và hoại tử cơ.

Về mức độ bảo vệ, tất cả các nhóm cá chẽm đều có mức độ bảo vệ khác nhau đối với các chủng vi khuẩn Vibrio gây bệnh (Vibrio harveyi, V. alginolyticusV. parahaemolyticus). Nhưng nhìn chung khi cá ăn thức ăn bổ sung vắc xin V. harveyi chủng VH1 có tỷ lệ sống cao hơn so với nhóm cá không được điều trị với RPS (relative percentage survival) là 70-85%.

Thử nghiệm nuôi tại ao 

Thử nghiệm được tiến hành đối với cá mú lai (Epinephelus fuscoguttus x E. lanceolatus), cá ăn thức ăn bổ sung vắc xin ở ngày 0, ngày 14, ngày 42  trong 5 ngày liên tục và được theo dõi liên tục trong 112 ngày (4 tháng), đồng thời đánh giá tăng trưởng và khả năng bảo vệ cá mú.

Cụ thể, sau 4 tháng theo dõi, sự gia tăng trọng lượng cơ thể mạnh hơn (248 g) ở nhóm điều trị vắc xin bằng cách cho ăn V. harveyi chủng VH1 bất hoạt. Ngược lại, nhóm đối chứng cho thấy trọng lượng cơ thể tăng 208 g, với trọng lượng ban đầu là 31 g, cho thấy rằng việc cho ăn chủng vi khuẩn V. harveyi VH1 giúp gia tăng trọng khoảng 22,56%. Tổng lượng thức ăn tiêu thụ được theo dõi trong suốt 4 tháng thử nghiệm và hiệu quả thức ăn được đánh giá dựa trên mối quan hệ giữa tiêu thụ thức ăn và tăng trọng. Cụ thể, nhóm bổ sung vắc xin có hiệu quả chuyển hóa thức ăn cao hơn 58,05% so với nhóm đối chứng, cho thấy rằng nhóm điều trị yêu cầu thức ăn ít hơn 58,05% so với nhóm đối chứng để sản xuất một đơn vị trọng lượng cơ thể cá. Đồng thời vào cuối thời gian thử nghiệm, tỷ lệ sống của cá bổ sung vắc xin cho ăn là 79,75%, cao hơn có ý nghĩa (p <0,05) so với 65,1% của cá đối chứng

Sử dụng vắc xin bổ sung vào thức ăn cung cấp một phương pháp điều trị dễ dàng hơn, hiệu quả về chi phí, thân thiện với người sử dụng và ít gây stress cho vật nuôi. Ngoài ra, vắc xin được tạo ra bằng vi khuẩn V. harveyi chủng VH1 bất hoạt là một trong những ứng cử viên vắc xin có tiềm năng kích thích phản ứng miễn dịch tốt và mang lại khả năng bảo vệ cao ở cả cá chẽm và cá mú lai.

Nguồn: Mohamad, A. et al. (2022). Laboratory and Field Assessments of Oral Vibrio Vaccine Indicate the Potential for Protection against Vibriosis in Cultured Marine Fishes. Animals, 12, 133.

Đăng ngày 15/01/2022
Hồng Huyền @hong-huyen
Dịch bệnh

Một số mầm bệnh phổ biến trên lươn đồng

Lươn đồng là đối tượng nuôi có nhiều tiềm năng do thịt lươn có nhiều dinh dưỡng, thời gian nuôi ngắn, chi phí đầu tư thấp, dễ nuôi, giá cả ổn định đem lại hiệu quả kinh tế cao, giúp cải thiện đời sống cho người dân.

Lươn
• 12:06 22/09/2023

Ký sinh trùng, nấm và những tác hại gây ra trên cá nước ngọt nuôi thâm canh

Các loài cá nước ngọt bản địa như cá rô đồng, cá lóc, sặc rằn, cá tra…được nuôi nhiều tại các tỉnh Miền tây như Hậu Giang, Đồng Tháp, An Giang, Trà Vinh hay các tỉnh Miền Đông như Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước…

Cá lóc
• 15:28 28/08/2023

Các bệnh thường gặp trên cá chẽm

Cá chẽm (Lates calcarifer), là loài có giá trị kinh tế quan trọng ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương như Úc, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và Đài Loan.

Cá chẽm
• 10:30 24/08/2023

Ảnh hưởng của vi bào tử trùng EHP lên tôm thẻ chân trắng

Hiện nay, tình hình nhiễm vi bào tử trùng EHP trên tôm nước lợ ở một số vùng nuôi của tỉnh Kiên Giang đang có chiều hướng gia tăng. Bệnh do vi bào tử trùng EHP không gây chết hàng loạt và có ảnh hưởng rất lớn về kinh tế đối với nghề nuôi tôm vì mức độ phân cỡ và tiêu tốn nhiều thức ăn.

Tôm thẻ
• 12:18 22/08/2023

Thị trường đang phát triển thúc đẩy nhu cầu về ngành nuôi trồng rong biển

Theo báo cáo mới, mặc dù nhiều người vẫn không chắc chắn về khả năng và tính lâu dài của việc chiết xuất carbon từ rong biển, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy carbon từ rong biển có tác động đến môi trường thấp hơn so với các sản phẩm truyền thống.

Rong biển
• 05:23 26/09/2023

Bình Định tiếp tục tăng cường công tác phối hợp phòng chống khai thác IUU

Trong thời gian gần đây, các lực lượng chức năng: Hải quân, cảnh sát biển, kiểm ngư của một số nước trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Brunei, Philippin… đã gia tăng số lượng tàu tuần tra, tăng tần suất các hoạt động truy quét, tuần tra, giám sát trên biển và xử lý kiên quyết, cứng rắn đối với các tàu cá nước ngoài hoạt động đánh bắt trên vùng biển của họ và các vùng biển chồng lấn, vùng biển giáp ranh và có tranh chấp với nước ta.

Tàu cá
• 05:23 26/09/2023

Xu hướng đa dạng hóa đối tượng nuôi trồng thủy sản

Ngoài việc tập trung nguồn lực với các đối tượng nuôi chủ lực thì hiện nay ngành nuôi trồng thủy sản cũng phát triển đa dạng hóa đối tượng nuôi nhằm khai thác tốt diện tích mặt nước, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người dân, phù hợp với điều kiện địa phương.

Tôm thẻ
• 05:23 26/09/2023

Cá lau kiếng là gì? Trứng cá lau kiếng có độc không?

Cá lau kiếng là một loại cá có khả năng làm sạch bể nước và có thể được sử dụng để chế biến thành nhiều món ngon.

Cá lau kiếng
• 05:23 26/09/2023

Cấu trúc ống tiêu hóa ảnh hưởng đến đặc tính ăn của cá thát lát còm

Trong quá trình sản xuất giống các loài thủy sản, xác định tính ăn của cá bột là có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình sản xuất. Có rất nhiều nghiên cứu về tính ăn của cá bột cũng như sự phát triển của ống tiêu hóa để chọn lựa loại thức ăn thích hợp ương cá.

Cá thát lát còm
• 05:23 26/09/2023