Một số kết quả điều tra nguồn lợi cá đáy ở biển Việt Nam bằng lưới kéo đáy năm 2012

Dự án “Điều tra tổng thể hiện trạng và biến động nguồn lợi hải sản biển Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Hải sản thực hiện từ năm 2011 đến 2015. Trong giai đoạn 2012-2013, Viện đã thực hiện các chuyến khảo sát, đánh giá nguồn lợi hải sản tầng đáy và gần đáy tại các vùng biển: Vịnh Bắc bộ, Trung bộ, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ. Chuyến khảo sát được thực hiện bởi các tàu cá (thuê của ngư dân) có chiều dài 26m, rộng 6,8m, công suất máy chính 600-900 CV. Thu mẫu bằng lưới kéo đáy (lưới kéo đơn), chiều dài giềng phao khoảng 26,5m, chiều dài giềng chì 33,5m; độ mở ngang miệng lưới khoảng 14m và độ mở cao miệng lưới là 3,5m. Kích thước mắt lưới kéo căng ở đụt lưới (2a) là 30mm. Bên cạnh đó, chuyến điều tra đã sử dụng thiết bị thu mẫu động vật phù du, thực vật phù du, môi trường, khí tượng hải dương học và thu mẫu trứng cá, cá con để bổ sung thêm các thông tin về môi trường, hải dương và phục vụ các nghiên cứu đánh giá khác.

nguồn lợi cá đáy ở biển Việt Nam

Mẫu được thu thập dựa trên hệ thống trạm được thiết kế cố định với khoảng cách 30 hải lý vuông, mỗi mẻ lưới có thời gian kéo khoảng 1 giờ và tốc độ kéo lưới nằm trong khoảng 3,2-3,5 hải lý/giờ.

Việc ước tính trữ lượng nguồn lợi hải sản dựa trên phương pháp truyền thống - phương pháp diện tích “Swept Area”.  Một số kết quả bước đầu về đánh giá nguồn lợi hải sản dựa vào chuyến điều tra nguồn lợi bằng lưới kéo đáy do Viện Nghiên cứu Hải sản thực hiện năm 2012-2013 cho thấy:

Đã điều tra được tổng số 684 loài hải sản thuộc 332 giống và 149 họ. TRong đó nhóm cá đã bắt gặp và định loại được 580 loài, nhóm nhuyễn thể chân đầu bắt gặp 35 loài, giáp xác 32 loài và các nhóm khác bắt gặp 37 loài.

Kết quả điều tra bằng lưới kéo đáy tại các vùng biển:

kết quả điều tra lưới kéo

Về thành phần sản lượng, một số họ cá chiếm tỷ lệ trội trong sản lượng thu mẫu tại vùng biển Vịnh Bắc bộ như; họ cá Khế (Carrangidae) chiếm 4,9%, họ cá Miễn sành (Sparidae) chiếm 11,3%; họ cá Sơn phát sáng (Acropomatidae) chiếm 10,3%, tiếp theo là họ cá Liệt (Leiognathidae), họ cá Mối (Synodontidae), họ Mực ống (Loliginidae).  Trong đó, các loài chiếm ưu thế là: cá Miễn sành (Evynnis cardinalis) 10,7%; cá Nục sồ (Decapterus maruadsi) 9,3%, cá Sơn phát sáng (Acropoma japonicum) 6,2%.

Tương tự, ở khu vực biển Trung bộ, các họ cá chiếm ưu thế trong sản lượng mẫu khai thác gồm có họ cá Khế (14,1%), họ cá Miễn sành (7,4%), họ cá Hố (7,1%), họ cá Sơn phát sáng (5,5%), họ cá Nóc (4,6%) và họ cá Đù (3,9%). Trong đó, cá Nục sồ chiếm tỷ lệ sản lượng cao nhất (8,4%), tiếp theo là cá Miễn sành (6,9%), Mực ống (2,4%) và cá Bánh lái (2,2%).

Vùng biển Đông Nam bộ, nguồn lợi hải sản điều tra được có thành phần sản lượng khác biệt hơn so với hai vùng trên, cá Mối là họ chiếm ưu thế, kế tiếp là họ cá Khế, Mực ống, cá Lượng, Mực nang, cá Đối...  Họ cá Mối chiếm 17,8% sản lượng mẫu, cá Khế và họ Mực ống tương đương nhau - khoảng 8,2%, cá Lượng chiếm 6,7%, họ Mực nang và họ cá Đối chiếm tỷ lệ tương đương - khoảng 4,4%.  Trong đó, loài cá Mối vạch, cá Mối hoa và Mực ống Trung Hoa chiếm tỷ lệ sản lượng cao nhất, lần lượt là 7,5%, 7,4% và 5,6%.

Kết quả nghiên cứu về thành phần sản lượng ở vùng biển Tây Nam bộ cho thấy, họ cá Nóc chiếm tỷ lệ sản lượng cao nhất - 11,5%, tiếp theo là họ cá Mối - 7,7%, họ Mực ống và họ cá Khế tương đương nhau, đều chiếm khoảng 6%, họ cá Liệt - 5,9% và họ cá Đù - 5,4%. Nhìn chung, các loài cá đáy có giá trị ở khu vực biển Tây Nam bộ không nhiều và chiếm tỷ lệ khá nhỏ trong tổng sản lượng của tàu thu mẫu. Các đối tượng có giá trị kinh tế cao là: Mực ống Trung Hoa (4,6%), cá Mối ngắn (2,8%), cá Mối vạch (2,4%), cá Mối thường (2,1%)...

Ước tính trữ lượng nguồn lợi hải sản bằng lưới kéo đáy ở biển Việt Nam khoảng 884.500 tấn, trong đó nguồn lợi cá đáy ước khoảng 325.000 tấn. Trữ lượng nguồn lợi hải sản tầng đáy và gần đáy điều tra được bằng lưới kéo đáy ở vùng Vịnh Bắc bộ, Trung bộ, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ lần lượt là 185.084 tấn, 408.715 tấn, 203.439 tấn và 87.261 tấn. Tổng sản lượng ước tính cho toàn bộ vùng biển khoảng 884.000 tấn.

Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Hải sản, so với những năm 2000, nguồn lợi cá đáy và gần đáy ở biển Việt Nam  đã bị suy giảm mạnh đặc biệt là khu vực Đông Nam bộ và Tây Nam bộ.

Trữ lượng nguồn lợi hải sản ước tính ở biển Việt Nam theo dải độ sâu và vùng biển:

nguồn lợi hải sản

Kết quả bước đầu cho thấy, nguồn lợi hải sản tầng đáy và gần đáy (tại vùng nước có độ sâu dưới 200m ở biển Việt Nam) có xu hướng giảm rõ rệt so với các năm trước, đặc biệt là khu vực Đông và Tây Nam bộ. Nguyên nhân có thể do sự gia tăng cường lực khai thác của nhóm nghề lưới kéo trong những năm gần đây. Đồng thời, việc sử dụng các ngư cụ có kích thước nhỏ hơn quy định, các biện pháp khai thác mang tính hủy diệt, trong khi chế tài và bộ máy thực hiện công tác theo dõi, giám sát các hoạt động khai thác thủy sảntrên biển cũng như tại điểm lên cá còn yếu và chưa hiệu quả.

Việc nghiên cứu, đánh giá nguồn lợi hải sản bằng lưới kéo đáy là một trong những phương pháp có từ rất sớm. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc nghiên cứu hệ số thoát cá của lưới điều tra chưa được thực hiện. Vì vì vậy, cần có những nghiên cứu sâu về đánh giá hệ số khai thác (hệ số q) để có kết quả ước tính trữ lượng nguồn lợi chuẩn xác hơn.

Theo Fistenet.gov.vn
Đăng ngày 17/07/2013
Nguyễn Bá Thông (tổng hợp)

Tăng cường công tác quản lý đội tàu và theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá

Nhằm triển khai đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả Luật thủy sản 2017, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác chống khai thác IUU trên địa bàn tỉnh, chuẩn bị nội dung đón và làm việc với đợt thanh tra lần thứ 5 của Đoàn Thanh tra EC; Tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp quản lý, ngăn chặn, chấm dứt tàu cá và ngư dân Bình Định vi phạm IUU, góp phần cùng cả nước gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” của EC.

Tàu cá Việt Nam
• 10:00 26/06/2024

Bình Định ban hành kế hoạch chống khai thác IUU và phát triển bền vững ngành thủy sản

UBND tỉnh Bình Định vừa ban hành Kế hoạch hoạch Thực hiện Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 22/4/2024 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động và Kế hoạch của Chính phủ triển khai Chỉ thị số 32- CT/TW ngày 10/4/2024 của Ban Bí thư về công tác chống khai thác IUU và phát triển bền vững ngành thủy sản tỉnh Bình Định.

Nuôi trồng thủy sản
• 11:02 20/06/2024

Đảm bảo 100% tàu cá lắp đặt thiết bị VMS và kết nối

Sáng 6/6/2024, Bộ NN&PTNT tổ chức buổi làm việc triển khai kế hoạch chống khai thác IUU để đón đoàn công tác EC lần thứ 5, đặt mục tiêu trước tháng 9/2024 hoàn tất 100% tàu cá được lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) và kết nối khi hoạt động trên biển. Nhiệm vụ không dễ dàng bởi hiện còn nhiều tàu cá chưa lắp đặt thiết bị VMS và hàng trăm tàu đã lắp đặt lại để mất kết nối nhiều ngày.

Tàu cá Việt Nam
• 10:49 12/06/2024

Di dời tàu thuyền neo đậu tại cảng cá Quy Nhơn

Sáng ngày 7.6, tại xã Nhơn Hải, Phòng Kinh tế TP Quy Nhơn phối hợp với Chi cục Thủy sản ( Sở NN&PTNT) và các đơn vị có liên quan tổ chức gặp gỡ các chủ tàu cá xã Nhơn Hải để tuyên truyền thông tin chủ trương của Tỉnh theo Quyết định số 1739/QĐ-UBND ngày 17/5/2024 của UBND tỉnh Bình Định về việc ban hành Đề án di dời tàu thuyền neo đậu tại cảng cá Quy Nhơn và các khu vực lân cận về neo đậu tại khu vực đầm Đề Gi và Chính sách hỗ trợ di dời của tỉnh và các vấn đề có liên quan.

Tàu cá Việt Nam
• 11:35 07/06/2024

Bệnh DIV1 trên tôm và các biện pháp phòng, chống dịch bệnh

Bệnh DIV1 trên tôm do Decapod Iridescent Virus 1 (DIV1) gây ra, được phát hiện lần đầu tiên trên mẫu tôm càng đỏ (Cherax quadricarinatus) vào năm 2014 tại tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc sau đó vi rút tiếp tục gây bệnh cho các trang trại nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm càng xanh tại một số tỉnh của Trung Quốc.

Tôm bệnh
• 02:44 01/07/2024

Tôm hùm, cá biển chết hàng loạt vì lượng oxy hòa tan giảm

Theo lãnh đạo UBND thị xã Sông Cầu, từ ngày 22 đến 24 tháng 6, đã xảy ra tình trạng tôm hùm và cá biển chết hàng loạt tại 6 vùng nuôi thủy sản của xã Xuân Cảnh. Sự cố này đã ảnh hưởng đến 88 hộ nuôi, gây thiệt hại ước tính hơn 7.3 tỷ đồng.

Thủy hải sản
• 02:44 01/07/2024

Áp dụng và phát triển bền vững công nghệ sinh học trong ao nuôi thủy sản

Trong thời đại hiện đại, khi những thách thức về môi trường và tài nguyên đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, việc áp dụng và phát triển bền vững công nghệ sinh học trong các trang trại thủy sản đóng vai trò quan trọng và cần thiết.

Cho tôm ăn
• 02:44 01/07/2024

Tăng cường quản lý NTTS trong thời tiết nắng nóng, mưa bão và hạn hán xâm nhập mặn

Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia, từ nay đến cuối năm thời tiết thay đổi theo hướng cực đoan, nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn, áp thấp nhiệt đới, mưa, bão xảy ra không theo quy luật.

Nuôi thủy sản lồng bè
• 02:44 01/07/2024

Điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án mở rộng Cảng Quy Nhơn đến năm 2030

UBND tỉnh Bình Đinh ban hành Quyết định số 988/QĐ-UBND về việc điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án mở rộng Cảng Quy Nhơn đến năm 2030 tại phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn (giai đoạn 1) do Công ty CP Cảng Quy Nhơn làm chủ đầu tư. Quyết định này điều chỉnh cho Quyết định số 2721/QĐ-UBND ngày 29/6/2021 của UBND tỉnh.

Cảng Quy Nhơn
• 02:44 01/07/2024
Some text some message..