Có thâm niên hơn 15 năm “lặn bộ”, chị Ngô Thị Nhơn cho biết: Mùa lặn ở đây chia làm hai đợt. Từ tháng giêng đến tháng tư thì rủ nhau đi lặn tôm; từ tháng năm trở đi chuyển sang lặn rau, đến mùa mưa bão thì… ở nhà. Trong làng cũng ít người làm vì ngại ảnh hưởng đến sức khỏe, rám nắng. Chỉ khoảng mười chị em bám nghề thôi, còn hầu hết làm theo “thời vụ”, bữa làm bữa nghỉ.
Ban đầu, nghề “lặn bộ” của phụ nữ Mỹ Hiệp chỉ lặn tìm rau chân vị, rau vân mùa hiếm cá, để phụ giúp kinh tế gia đình trong lúc chờ thuyền cập bến, tải cá. Thời đó rau nhiều, một buổi được vài chục ký. Dần dà, họ chuyển sang nghề lặn tôm hùm con vì giá trị kinh tế cao gấp mấy lần. Lặn tôm hùm con cũng lắm công phu. Con tôm nhỏ như que tăm nấp trong hang hốc, thợ lặn phải có con mắt tinh tường mới phát hiện được mấy cọng râu ló ra ngoài phất phơ; phát hiện rồi phải có nghệ thuật “dụ” tôm búng mình ra ngoài, chẳng hạn lấp đất vào cho tôm ngộp, chứ để nó thụt sâu vào hang thì không cách chi bắt được.
Mấy năm trước tôm nhiều, người lặn ít, một ngày lặn bắt đầu tầm 6 giờ sáng đến đầu giờ chiều cũng kiếm đủ tiền chợ cho gia đình 5 - 6 người ăn. Những năm gần đây, vùng biển từ Mỹ Tân, Mỹ Hiệp đến Khánh Nhơn nổi lên nghề trồng rong sụn nên việc “lặn bộ” của chị em trong thôn cũng bị thu hẹp dần.
Thêm nữa, thời gian gần đây tôm ít, người lặn nhiều nên mỗi ngày lặn hụt hơi, đỏ mắt cũng chỉ được 1 đến 2 con, bù lại giá tôm cao nên thu nhập cũng khá. Cũng là tôm hùm con nhưng nếu bắt trúng tôm sao giá cao từ 200.000 - 400.000 đồng/con; tôm trắng, tôm xanh thì rẻ hơn, từ 70.000 - 150.000 đồng/con. Chị nào “lặn bộ” chuyên nghiệp bình quân mỗi tháng lặn chừng 20 ngày, thu nhập từ 7 đến 10 triệu đồng.
Nhưng đã theo quy luật, nghề lặn cũng bữa có bữa không. Có chị cả ngày chỉ được vài con ốc phụ thêm bữa ăn trong gia đình. Nếu không có sự nhẫn nại, bám biển, bám nghề thì các chị chỉ biết chờ chồng đi biển về như không ít phụ nữ khác ở làng biển.
Nhiều phụ nữ làng Mỹ Hiệp có thu nhập khá, cải thiện kinh tế gia đình nhờ nghề “lặn bộ”, tuy nhiên, nghề này cũng không ít hiểm họa. Chị Nhơn chia sẻ: “Dụng cụ của nghề “lặn bộ” chỉ có cái kính và chiếc phao thôi, chứ đúng “bài” như nghề lặn của đàn ông phải thêm bình thở ô xy và bộ đồ nhái. Chị em đi lặn hoàn toàn bằng khả năng nín thở dưới nước của mình. Cũng chính vì vậy không ít trường hợp bị ngạt nước, may mà cứu kịp”.
Bản thân chị Nhơn dù nhiều năm kinh nghiệm “lặn bộ” nhưng cũng nhiều phen nhớ đời. Có lần, chị bạn rủ đi lặn bắt tôm hùm con núp ở vỏ ghe đang neo ngoài bãi, chị Nhơn cũng “thử” đi. Vì không quen lặn dưới ghe nên chị bị say sóng, cảm giác hơi mình yếu dần, xây xẩm mặt mày, chị cố bơi vào bờ nằm thở dốc. May có người trong làng phát hiện, kịp sơ cứu, đưa về.
Chồng chị Nhơn - anh Trần Hải vốn là thợ lặn “có tiếng” của làng Mỹ Hiệp, nên hiểu rõ những nguy hiểm chực chờ trong nghề “lặn bộ” của phụ nữ. Anh vẫn thường hướng dẫn chị Nhơn cách điều hòa hơi thở, và làm thế nào để nước không vào kính lặn. Anh Hải chia sẻ: So với đàn ông, nghề lặn của phụ nữ vất vả hơn vì phải nín thở lâu trong nước. Nguy hiểm nhất là bị đuối hơi rất dễ dẫn đến tắt thở. Nhưng nhiều chị lại không học được cách ngậm bình thở ô xy, một khi đã không biết sử dụng thì càng dễ dẫn đến tai nạn hơn. Vậy nên, phụ nữ ở đây chẳng ai dùng bình thở khi đi lặn cả.
Vẫn biết công việc vất vả, có khi đánh đổi cả tính mạng, nhưng chị Ngô Thị Hòa cũng đã theo nghề lặn được mấy năm rồi. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, chồng mất sức lao động vì tai nạn, con cái đang tuổi ăn học, chị đành “nhắm mắt đưa chân”, lâu ngày “đâm ra” gắn bó luôn. Theo chị, mỗi người mỗi việc, việc nào cũng có cái khó của nó. Biết là vất vả nhưng cũng phải chấp nhận. Cốt là biết lường sức mình.