Ô nhiễm nghiêm trọng
Cứ đến mùa nắng nóng là người dân ở các vùng nuôi tôm trên cát thuộc các huyện Thăng Bình, Núi Thành lo lắng vì nước sinh hoạt bị nhiễm mặn. Ở các thôn Hòa Bình, Hòa An, Bình An của xã Tam Hòa (Núi Thành), nguồn nước ngầm bị nhiễm mặn do nuôi tôm nên người dân bắt buộc phải mua nước về sử dụng.
“Nước bị mặn nên sinh hoạt rất khó khăn. Đã vậy, ngay cả giặt áo quần hay tắm giặt cũng phải chắt chiu từng giọt. Mỗi thùng nước có giá hàng chục nghìn đồng mà chúng tôi sinh kế tạm bợ, đắp đổi qua ngày nên vô cùng khổ sở” - bà Ngô Thị Liêu ở thôn Hòa Bình nói.
Quanh ngôi nhà bà Liêu đang ở là bề bộn các ao nuôi tôm. Nhiều hộ nuôi ngay trong vườn nhà. Bà Liêu cho rằng, dù đã lót bạt trên cát để nuôi tôm nhưng nguồn nước từ ao nuôi vẫn thẩm thấu xuống đất từ năm này qua năm khác khiến cho nước ngầm bị thoái hóa, nhiễm mặn.
Từ xã Tam Hòa, theo con đường Thanh niên ven biển, chúng tôi có mặt ở các vùng nuôi tôm trên cát thuộc các xã Tam Tiến (Núi Thành), Tam Thanh (Tam Kỳ), Bình Nam, Bình Hải, Bình Sa (Thăng Bình), tận mắt chứng kiến môi trường đã bị ô nhiễm do nuôi tôm trên cát tràn lan, tự phát.
Ở các thôn Kỳ Trân, Đồng Trì, Phước An (xã Bình Hải), nhiều khu vực rừng phi lao phòng hộ nham nhở vì bị chặt phá để đầu tư nuôi tôm trên cát. Các công trình ao nuôi tôm được nông hộ đầu tư được chăng hay chớ, không hề có hệ thống xử lý nước thải. Nước bẩn, nước chứa tôm chết bị xả thải tràn lan ra bên ngoài. Nhiều hộ cho rằng, vì chỉ nuôi tôm tạm thời nên không dám đầu tư đồng bộ máy móc, thiết bị xử lý nước thải.
Tại các thôn Nghĩa Hòa, Phương Tân (xã Bình Nam), la liệt các ao nuôi tôm không đầu tư hệ thống bảo vệ môi trường. Nước thải xả trực tiếp xuống biển và sông Trường Giang.
Ông Trần Văn Tốt - Chủ tịch UBND xã Bình Nam cho biết, nước sông Trường Giang đã bị ô nhiễm nghiêm trọng do nuôi tôm tự phát. Nhiều khu vực nước biển cũng ô nhiễm vì quá trình nuôi tôm không xử lý nước thải mà xả thẳng ra bên ngoài.
Cần chấn chỉnh
Theo bà Phạm Thị Hoàng Tâm - Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Quảng Nam, đến thời điểm này, tại các vùng nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi tôm nước lợ nói riêng trên địa bàn chưa hề có hệ thống thủy lợi dẫn nước ngọt, nước mặn đến vùng nuôi. Nguồn nước cấp và nước thoát đều chỉ có một kênh duy nhất. Do đó, nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, lây lan dịch bệnh trên tôm nuôi là không tránh khỏi. Hệ lụy là vừa khiến người nuôi tôm thua lỗ vừa khiến môi trường bị đầu độc.
“Giải pháp khả dĩ cho nghề nuôi tôm nước lợ Quảng Nam là phải nuôi tập trung với mỗi vùng có diện tích 10ha trở lên. Để thuận lợi cho sản xuất thì nhất thiết nông hộ phải đầu tư hệ thống xử lý nguồn nước, nước cấp vào ao nuôi và nước thải ra bên ngoài. Ngành đã đề xuất UBND tỉnh hỗ trợ đầu tư hệ thống thủy lợi để phục vụ cho nuôi tôm thâm canh, nuôi tôm ở các vùng có độ mặn cao hơn 20‰” - bà Tâm nói.
Theo ngành chức năng, cái khó là để nuôi tôm ở các vùng sản xuất tập trung thì đòi hỏi nông hộ phải có tiềm lực tài chính khá, huy động nguồn vốn lớn để đầu tư các yếu tố hạ tầng thiết yếu. Mà việc này thì chỉ có thể trông chờ vào doanh nghiệp lớn chứ hợp tác xã, tổ hợp tác và nông hộ còn nhỏ lẻ, manh mún.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Trí Thanh cho biết, nuôi tôm nước lợ ở Quảng Nam đã tồn tại nhiều bất cập, vì thế phải chấn chỉnh theo hướng phát triển bền vững. Vùng nuôi tôm tập trung là lựa chọn tất yếu. Theo đó, bắt buộc phải kiện toàn lại hệ thống giao thông phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, phải có hệ thống kênh cấp và thoát nước riêng biệt, chắc chắn, không rò rỉ, thẩm lậu, đảm bảo đủ cấp và thoát nước khi cần thiết. Hệ thống cấp và thải nước phải độc lập với nhau, được quản lý đảm bảo không làm ô nhiễm nguồn nước lẫn môi trường xung quanh. Bên cạnh đó, phải có hệ thống chứa nước, xử lý nước thải, chất thải từ khu vực nuôi trước khi thải ra môi trường. Nước thải sau khi xử lý phải đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy định. Mỗi cơ sở nuôi tôm thuộc vùng tập trung phải có khu chứa bùn thải đảm bảo xử lý hết lượng bùn thải sau mỗi đợt nuôi. Khu chứa bùn thải có bờ ngăn không để bùn và nước từ bùn thoát ra môi trường xung quanh. Ngoài ra, vùng nuôi phải có hệ thống thu gom, phương tiện phân loại, tập kết và xử lý rác, chất thải.
Theo bà Lê Thị Tuyết Hạnh - Phó Giám đốc Sở TN-MT, các quy định về đầu tư thiết bị, quy trình xử lý chất thải trong nuôi tôm để bảo vệ môi trường đã được ban hành lâu nay trên địa bàn tỉnh nhưng do công tác quản lý ở cơ sở còn kém; các nông hộ nuôi tôm sản xuất được chăng hay chớ, vì lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua. Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành nhưng khi phát hiện chủ yếu mới dừng lại ở hình thức nhắc nhở, chưa xử lý mạnh tay. Vậy nên, cần chấn chỉnh công tác quản lý nuôi tôm ở các địa phương ven biển, cần vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền cấp huyện, cấp xã, nhất là sự hưởng ứng, tuân thủ quy định của nông hộ nuôi tôm.