Phân tích chuỗi giá trị ngành thủy sản Việt Nam

Dựa trên các kết quả đã của giai đoạn 1 chương trình nghiên cứu chuỗi giá trị ngành XK thủy sản ở Việt Nam do cơ quan LEI thuộc Trung tâm Xúc tiến NK từ các các nước đang phát triển (CBI ), Trường Đại học và Trung tâm nghiên cứu Wageningen, Hà Lan, thực hiện các ngành tôm, cá tra, cá ngừ và nhuyễn thể 2 mảnh vỏ của Việt Nam đã được lựa chọn để phân tích.

tôm thẻ cỡ thu hoạch
Tôm thẻ chân trắng cỡ thu hoạch. Ảnh tepbac.com

Ngành tôm

Khoảng 90% tôm sản xuất ở Việt Nam được XK. Tôm sú hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tuy nhiên, tỷ lệ sản lượng tôm chân trắng đang tăng khá nhanh. Có khả năng trong những năm tới sẽ có thêm nhiều nông dân chuyển sang sản xuất loài tôm ngoại lai này. 5 trở ngại chính cho tiềm năng XK của ngành tôm Việt Nam đã được xác định thông qua rất nhiều tài liệu nghiên cứu và các cuộc hội nghị, hội thảo, được trình bày trong bảng 1.

Năm trở ngại ngành tôm:

 Các trở ngại Cấp độ trong chuỗi
 Dịch bệnh tôm Cấp độ sản xuất
Thiếu sản xuất tôm bền vững Cấp độ sản xuất
Thiếu liên kết dọc trong chuỗi giá trị Tất cả các cấp độ
Thiếu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng Tất cả các cấp độ
Thiếu sự liên kết giữa các thành phần trong chuỗi và tổ chức liên quan Tất cả các cấp độ

Có thể nhận thấy sự chồng chéo đáng kể trong các trở ngại trên, từ đó một giải pháp có thể tháo gỡ cùng lúc nhiều vấn đề. Đa số các giải pháp đều liên quan đến việc tăng cường hợp tác giữa các nhà nước và tư nhân trong ngành tôm. Trở ngại quan trọng nhất đối với XK là truy xuất nguồn gốc (TXNG), VSATTP và tính bền vững. Có thể giải quyết những vấn đề đó bằng cách tăng cường kiểm soát và tác động đế các công ty dẫn đầu trong chuỗi giá trị. Trái với những vấn đề ở cấp độ sản xuất như bệnh và chi phí đầu vào cao, những vấn đề liên quan trực tiếp đến XK như không tuân thủ các quy định về TXNG và ATTP sẽ dẫn đến việc từ chối tiếp cận thị trường, đặc biệt là từ các nhà chức trách y tế của EU.

Điều này đặc biệt đúng khi XK vào phân khúc thị trường bán lẻ EU, nơi có các yêu cầu về ATTP, TXNG và phát triển bền vững chặt chẽ và phức tạp hơn. Cách duy nhất để tăng cường sự kiểm soát trong chuỗi cung ứng là tạo ra được một nhóm lợi ích cơ sở của người nuôi, nhóm này sẽ làm việc với các DN thu mua, hoặc hình thành các hợp tác xã của nông dân sản xuất quy mô nhỏ. Điều này cho phép họ trang trải chi phí đầu vào trong khi vẫn duy trì vị thế trong thương lượng, cho phép họ tham gia vào mối quan hệ trực tiếp với các nhà XK tôm.

Nếu Việt Nam thành công trong việc tổ chức nông dân thành các hợp tác xã có uy tín, có thể thương lượng trực tiếp với các nhà XK và thuyết phục họ đầu tư vào các mối quan hệ bền vững với người nuôi tôm, thì triển vọng cho ngành là rất tốt. Tuy nhiên, quá trình này sẽ mất nhiều thời gian và trong ngắn hạn, cần phải đưa ra được giải pháp cụ thể để cải thiện tình hình hiện tại, ví dụ, nâng cao nhận thức và năng lực của các trung gian hay giúp đỡ các nhà XK tìm kiếm đối tác để đầu tư vào sản xuất tôm bền vững.

Các DN XK trong ngành tôm khá lành nghề. Các nhà XK được phỏng vấn tham dự các hội nghị đều cho biết việc tiếp cận, nắm bắt thị trường không phải là quá khó đối với họ, chứng tỏ họ có thể tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế mà không cần sự hỗ trợ nào. Chỉ khi sản lượng nuôi tôm tăng trưởng bền vững thì các nhà XK mới có động lực để gia tăng khối lượng XK thông qua việc tìm kiếm, mở rộng thị trường hoặc tham gia các hội chợ quốc tế.

Tuy nhiên, các nhà XK cũng như các bên liên quan khác trong ngành cũng cho rằng họ phải luôn nỗ lực để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm bền vững. Bên cạnh đó, họ cũng thấy lúng túng giữa hàng loạt tiêu chuẩn khác nhau ở các thị trường khác nhau như EU, Mỹ và Nhật Bản. Họ luôn phải tự cập nhật, xác định, chuẩn bị và áp dụng các hệ thống chứng nhận mới như ASC, ACC, GlobalG.A.P hoặc Naturland… để sản phẩm đáp ứng được thị trường, phải luôn xác định mô hình kinh doanh, khách hàng hiện tại, tiềm năng và thị trường để có thể gia tăng khối lượng và giá trị XK các sản phẩm tôm bền vững nói trên.

Ngành cá tra

Khoảng 90% cá tra sản xuất tại Việt Nam được XK. EU và Hoa Kỳ được coi là những thị trường cá tra quan trọng nhất. Hầu như tất cả cá tra XK theo dạng philê đông lạnh. Trong bảng 2 trình bày 5 trở ngại chính cho tiềm năng XK cá tra Việt Nam.

Vẫn còn nhiều việc cần làm để liên kết các bên liên quan trong ngành cá tra với nhau nhằm tạo dựng lợi ích chung giữa các bên, không chỉ giữa người nông dân và nhà XK, mà còn giữa các thành phần trong chuỗi giá trị và các tổ chức liên quan. Từ kết luận của các hội nghị đã diễn ra, tương lai của ngành cá tra sẽ sáng sủa hơn nếu hướng đến sản xuất bền vững, có thể đạt được nhờ nâng cao năng lực và khả năng của người nuôi cá hoặc thông qua các tổ chức của người nuôi theo chiều ngang hoặc bằng cách tăng các mối quan hệ chính thức giữa người nuôi và nhà chế biến XK, điều này sẽ khuyến khích các nhà XK đầu tư vào các trang trại cá tra.

Năm trở ngoại đối với ngành cá tra:

 Các trở ngại Cấp độ trong chuỗi
 Chất lượng giống kém Cấp độ sản xuất
Thiếu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng Cấp độ sản xuất
Thiếu sự liên kết giữa các thành phần trong chuỗi và tổ chức liên quan Tất cả các cấp độ
Thiếu liên kết và hội nhập theo chiều dọc trong chuỗi Tất cả các cấp độ
Yêu cầu đa dạng và phức tạp của khách hàng Các nhà CBXK

thu hoach ca tra

Tương tự như ngành tôm, các công ty XK cá tra tương đối lành nghề. Họ có thể tự khẳng định mình trên thị trường quốc tế và cũng đang phải vật lộn với rất nhiều tiêu chuẩn chứng nhận để sản phẩm của họ có thể tiếp cận được thị trường.

Ngành cá ngừ

XK cá ngừ Việt Nam có thể chia thành cá ngừ đóng hộp và cá ngừ đông lạnh. Mỹ, EU và Nhật Bản là những thị trường quan trọng nhất. 6 trở ngại chính cho tiềm năng XK cá ngừ Việt Nam được xác định trong bảng 3.

Phần lớn trở ngại xảy ra ở các đội tàu đánh cá và tại các cảng bốc dỡ. Hầu hết tàu đánh cá nhỏ phụ thuộc vào thương lái trung gian. Các nhà chế biến XK của Việt Nam dường như quan tâm đến việc NK cá ngừ hơn so với thu mua nguyên liệu do các đội tàu trong nước khai thác. Một khía cạnh quan trọng đối với NK cá ngừ từ Việt Nam là cá ngừ do tàu Việt Nam khai thác có mức thuế NK thấp hơn so với cá ngừ do tàu thuyền nước ngoài khai thác.

ca ngu chuoi gia tri

Ước tính có đến 50% số cá khai thác không thể bán được cho các nhà chế biến, do chất lượng bị xuống cấp vì các cơ sở lưu trữ, bảo quản không đủ lạnh. Với lợi thế có mức thuế cho cá ngừ đánh bắt ở Việt Nam thấp, các nhà chế biến phải rất quan tâm đến việc cải thiện chất lượng cá ngừ khai thác. Do đó, cần đề cao vị trí của các đội tàu đánh cá trong chuỗi giá trị. Gần đây, đã thành lập Hiệp hội Cá ngừ Việt Nam (VINATUNA), điều này có thể góp phần nâng cao vị thế của các đội tàu đánh cá. Để bảo quản chất lượng cá ngừ sau khai thác cần có các khoản đầu tư đáng kể và hoàn toàn không chắc chắn Chính phủ có khả năng hỗ trợ các yêu cầu này hay không. Ngoài ra, việc Việt Nam cố gắng để được công nhận là thành viên trong WCPFC được xem là một bước tiến quan trọng của ngành cá ngừ.

Bên cạnh việc tăng NK cá ngừ từ tàu thuyền nước ngoài, có thể tăng đáng kể sản lượng cá ngừ nhờ các biện pháp giảm tổn thất sau thu hoạch. Cùng với gia tăng sản lượng, còn một tiềm năng rất lớn là khuyến khích các nhà chế biến thu mua nguyên liệu từ nguồn thủy sản bền vững để hỗ trợ ngư dân và để tham gia vào các sáng kiến thúc đẩy thủy sản bền vững. Tuy nhiên đây là vấn đề khá hóc búa đối với cá ngừ, vì đó là đối tượng cư với trữ lượng không ổn định. Để tăng cường XK các sản phẩm bền vững được chứng nhận, những phương pháp tương tự như áp dụng đối với cá tra và tôm được xem là hợp lý.

Có nhiều ví dụ về các sáng kiến bền vững trong lĩnh vực thu mua cá từ các ngư dân quy mô nhỏ, sử dụng các phương pháp khai thác bền vững. Những sáng kiến này có thể dễ dàng làm tăng khối lượng và giá trị của sản phẩm cá ngừ bền vững. Tuy nhiên, bản thân các nhà chế biến phải nhận thức được thị trường tiềm năng của cá ngừ được chứng nhận bền vững.

Ngành nhuyễn thể 2 mảnh vỏ

Hiện nay, các loài hàu, vẹm đều chưa XK. Khoảng 80% giá trị XK nhuyễn thể là nghêu. Các loài XK khác là sò điệp và sò huyết. EU là thị trường XK quan trọng nhất. Bảng 4 trình bày 8 trở ngại chính cho tiềm năng XK nhuyễn thể Việt Nam.

ngeu trang chuỗi giá trị

Hầu hết các vướng mắc có liên quan đến việc quản lý nuôi, thu hoạch và cung cấp con giống. Việc loại bỏ các trở ngại này có thể là trách nhiệm của các cơ quan Chính phủ, mặc dù sự phát triển của mô hình đồng quản lý cũng được xem là khả năng có tính khả thi. Vị trí quan trọng của thương lái trung gian có thể ngăn các nhà XK hợp tác trực tiếp với các nhà sản xuất nhuyễn thể. Không ở ngành nào mà thương lái trung gian được đề cập đến như một nhân tố có thể góp phần loại bỏ các trở ngại như trong ngành nhuyễn thể. Nhấn mạnh vai trò trung gian và khuyến khích họ tham gia vào chuỗi giá trị có thể thúc đẩy tăng cường hợp tác trong chuỗi giá trị. Khi các công ty XK có nhiều quyền kiểm soát hơn đối với nguồn cung ứng, họ có thể thiết lập quan hệ với các công ty NK tại EU và Mỹ dễ hơn, bởi vì các nhà NK này thường đòi hỏi một nguồn cung cấp sản phẩm ổn định.

Việc sản xuất nghêu, hàu, trai đang phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng, nhưng cũng có nhiều cơ hội ổn định và tăng cường sản xuất. Trái ngược với các ngành khác, sò, hàu, điệp Việt Nam chưa phải là sản phẩm XK chủ yếu sang thị trường EU. Mặc dù Việt Nam đã có một nghề sản xuất nhuyễn thể được chứng nhận MSC, nhưng nhuyễn thể Việt Nam vẫn còn tương đối mới trên thị trường EU.

Trái với các ngành khác, các nhà XK cho thấy họ thiếu các mối quan hệ bền vững với khách hàng EU và chưa nhận thức đầy đủ về thị trường tiềm năng ở EU. Để tăng khối lượng và giá trị XK vào EU, họ cần sự hỗ trợ bổ sung để tiếp cận và tham gia các hội chợ thương mại cũng như gặp gỡ và tiếp xúc với các khách hàng tiềm năng trên thị trường quốc tế.

Bài này chỉ phân tích cho các DN vừa và nhỏ, không bao gồm các nhà XK lớn với sản phẩm đa dạng và phong phú trên thị trường quốc tế.

dịch theo CBI và TheFishSite.com
Đăng ngày 03/04/2013
Trần Duy Biên / Vietfish
Kinh tế

Tiêu hủy trên 2 triệu con tôm giống không qua kiểm dịch

Ngày 16/11, Phòng Cảnh sát về Môi trường Công an tỉnh Bạc Liêu vừa phối hợp các đơn vị liên quan bắt và tiêu hủy hơn 2 triệu con tôm giống không qua kiểm dịch.

tiêu hủy tôm giống
• 14:37 18/11/2022

Chấn chỉnh việc buôn bán, sử dụng kháng sinh cấm trong nuôi trồng thủy sản

Ngày 9/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có công văn gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc tăng cường quản lý buôn bán, sử dụng thuốc thú y thủy sản trong nuôi trồng thủy sản.

Cần quản lý chặt chẽ chất kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Tép Bạc
• 10:41 10/11/2022

Đừng nuôi tôm như... đánh số đề!

Giống tôm kháng bệnh có thể chậm lớn hơn, song sẽ khắc phục được bất lợi của thời tiết, dịch bệnh tại vùng nuôi tôm khu vực Bắc Trung bộ và các tỉnh phía Bắc.

Thu hoạch tôm. Ảnh: icdn.dantri.com.vn
• 09:41 03/11/2022

Bình Định: Đẩy mạnh công tác tuần tra kiểm soát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực thủy sản

TTKN Bình Định phối hợp với Truyền hình Bình Định tổ chức tọa đàm tăng cường kiểm soát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực thủy sản.

tọa đàm
• 11:58 02/11/2022

Vượt qua rào cản, giữ vững mục tiêu tăng trưởng của ngành tôm

Nằm trong bối cảnh các thách thức chung của ngành thủy sản toàn cầu, ngoài những thách thức về sự suy giảm về đầu ra lẫn giá thành tôm nguyên liệu tăng cao,…Ngành tôm Việt Nam còn phải đối mặt với sự rủi ro của dịch bệnh luôn tiềm ẩn, đe dọa đến mục tiêu phát triển của ngành này.

Mô hình nuôi tôm
• 10:47 19/09/2023

Loài tôm nào là nguồn xuất khẩu chủ lực ở nước ta?

Hiện nay, với sản lượng lên đến 27.504 tấn (tháng 5/2023), tôm thẻ chân trắng được xem là đối tượng xuất khẩu chính ở nước ta. Dự đoán trong tương lai, loài tôm này sẽ có sản lượng xuất khẩu vượt bậc.

Tôm thẻ
• 12:02 17/09/2023

Việt Nam trở thành thị trường nhập khẩu cá ngừ số 1 tại Mỹ

Hiện nay, Mỹ đang dẫn đầu thị trường nhập khẩu cá ngừ tại Việt Nam. Thông qua chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden, quan hệ ngoại giao của 2 nước được nâng lên mức Đối tác chiến lược toàn diện. Đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ Việt Nam.

Cá ngừ
• 12:08 16/09/2023

Nhìn nhận chặng đường vừa qua của ngành thủy sản trong năm 2023

Hiện nay, ngành thủy sản ở nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, song nếu có những kế hoạch, chiến lược đúng đắn và kịp thời, chúng ta sẽ hóa giải những khó khăn đó và biến chúng thành cơ hội.

Tàu thủy sản
• 12:06 11/09/2023

Nuôi tôm 3 giai đoạn là gì? Những lưu ý cần thiết cho từng giai đoạn

Mô hình nuôi tôm 3 giai đoạn đã xuất hiện khá lâu trên thế giới, tuy nhiên mô hình này chỉ thực sự phổ biến tại Việt Nam trong vài năm trở lại đây. Do đó, vẫn còn nhiều người băn khoăn rốt cuộc nuôi tôm 3 giai đoạn là như thế nào?

Mô hình nuôi tôm
• 22:26 27/09/2023

Nuôi ghép tổng hợp tôm, cua, cá đem lại thu nhập bền vững

Bình Định là một tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ có chiều dài bờ biển khoảng 134 km, có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để phát triển nghề nuôi thủy sản, đặc biệt là nuôi các đối tượng thủy sản lợ mặn.

Nuôi ghép tổng hợp
• 22:26 27/09/2023

Điểm qua một số loại tôm phổ biến trên thị trường hiện nay

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại tôm được bày bán. Điều này tạo điều kiện cho người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn. Song, cũng gây không ít khó khăn cho nhiều người trong việc phân biệt điểm giống, khác giữa một “rừng tôm” như thế.

Loài tôm
• 22:26 27/09/2023

Vai trò của PCR trong kiểm tra an toàn sinh học thức ăn thủy sản

Hiện nay, tồn tại nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến việc sử dụng PCR làm tiêu chuẩn vàng để phát hiện mầm bệnh khi áp dụng vào tình trạng an toàn sinh học của thức ăn thủy sản có công thức.

Thức ăn tôm
• 22:26 27/09/2023

Độc cấp tính của thuốc trừ sâu Padan 95SP đến tỷ lệ sống của cá chép

Nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng trong kinh tế Việt Nam. Trong trồng trọt, con người đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để trừ dịch hại, chủ yếu là thuốc bảo vệ thực vật. Nhóm thuốc có gốc lân hữu cơ và Carbamate được người dân sử dụng thường xuyên trong canh tác lúa ở ĐBSCL.

Cá chép
• 22:26 27/09/2023