Rau diếp biển làm thức ăn bổ sung cho tôm thẻ chân trắng

Enteromorpha prolifera là một loại tảo biển, có nhiều tên gọi khác nhau như rong ruột, tảo bẹ hay cái tên phổ biến nhất là rau diếp biển. Một ứng dụng thương mại quan trọng của E. prolifera là để sử dụng như nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.

Rau diếp biển
Rau diếp biển

E. prolifera chứa polysaccharides sunfat chủ yếu bao gồm rhamnose, axit glucuronic và xyloza, được coi là các phân tử có hoạt tính sinh học cao. Do đó, polysaccharide của E. prolifera đã được sử dụng làm phụ gia thức ăn để điều chỉnh các hoạt động sinh học khác nhau, chẳng hạn như điều hòa miễn dịch, chống oxy hóa, kháng khuẩn và chuyển hóa lipid. Những đặc tính sinh học này của E. prolifera polysaccharide không chỉ được xác nhận ở động vật trên cạn mà còn ở các loài thủy sản như cá và tôm.

Ngoại trừ polysaccharide, E. prolifera đã được chứng minh là có tác dụng tăng cường lượng thức ăn ăn vào của cá nhờ các chất hấp dẫn ăn tiềm năng có trong nó, chẳng hạn như betaine. Tuy nhiên, các nghiên cứu nói trên với bột E. prolifera hoặc polysaccharide E. prolifera chủ yếu dựa trên quy trình sấy khô hoặc chiết xuất truyền thống ở quy mô phòng thí nghiệm. Nên áp dụng các phương pháp chiết xuất mới để tăng các hợp chất có hoạt tính sinh học của E. prolifera ở cấp độ công nghiệp hóa quy mô lớn nhằm hỗ trợ việc sử dụng hiệu quả trong thức ăn thủy sản vẫn chưa được thực hiện.

Nghiên cứu mới đây của Viện Khoa học Thủy sản Trung Quốc đã đánh giá ba loại sản phẩm sinh học E. prolifera (bột, sản phẩm thủy phân hydrolyzate và polysaccharide), được cung cấp trên quy mô lớn bởi một công ty thương mại. Theo đó, tăng trưởng, lượng ăn vào, chuyển hóa lipid, chất chống oxy hóa, các thông số miễn dịch và khả năng chống stress đã được nghiên cứu ở tôm thẻ chân trắng. 

Hình 1
E. prolifera tươi được thu thập từ bờ biển Thanh Đảo, Trung Quốc

Trong nghiên cứu này, E. prolifera tươi được thu thập từ bờ biển Thanh Đảo, Trung Quốc (tháng 7 năm 2022) và được sử dụng để chuẩn bị sản xuất các sản phẩm liên quan. Các sản phẩm của E. prolifera bao gồm bột, sản phẩm thủy phân và polysaccharide do Qingdao Seawin Biotech Group Co., Ltd. (Thanh Đảo, Trung Quốc) cung cấp. Thử nghiệm cho ăn được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Thủy sản Biển thuộc Viện Nghiên cứu Thủy sản Biển Hoàng Hải. Tổng cộng 420 cá thể tôm có trọng lượng cơ thể trung bình 8 g được phân ngẫu nhiên vào 21 bể (đường kính 90 cm; cao 80 cm) với mật độ 20 con/bể.

Mỗi chế độ ăn thí nghiệm được chỉ định cho các bể với ba lần lặp. Tôm được cho ăn bằng tay 3 lần/ngày (07:30, 12:30 và 18:30). Thử nghiệm cho ăn kéo dài trong 44 ngày. Trong thời gian thử nghiệm cho ăn, các thông số chất lượng nước được theo dõi hai lần một tuần và nhiệt độ nước là 26,0–29,2 °C, độ mặn là 22–29, pH là 7,5–8,0 và oxy hòa tan là 6–8 mg/L. Công thức và thành phần gần đúng của các khẩu phần thử nghiệm được trình bày trong Bảng 1.  


Bảng 1. Công thức và thành phần gần đúng của các khẩu phần thí nghiệm (% chất khô) 

Kết quả về lượng thức ăn tích lũy cho mỗi cá thể tôm trong 14 ngày 

Lượng thức ăn tích lũy cho mỗi con tôm từ bữa ăn đầu tiên (FF), ngày đầu tiên sau khi cho ăn (1DAF) và 3DAF không khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức (p > 0,05) (Bảng 2). Tuy nhiên, từ 7 ngày đến 14 ngày sau khi cho ăn, lượng thức ăn tích lũy cho mỗi con tôm từ tất cả các chế độ ăn thử nghiệm đều cao hơn so với chế độ ăn đối chứng, đặc biệt đối với 0,4% E. prolifera hydrolysate (p < 0,05). 

Bảng 2

Bảng 2. Lượng thức ăn tích lũy cho mỗi cá thể tôm trong 14 ngày sau khi bắt đầu thử nghiệm cho ăn 

Kết quả về hiệu suất tăng trưởng 

Tỷ lệ sống dao động từ 93,33 đến 98,33% và không khác biệt đáng kể giữa tất cả các nhóm (p > 0,05) (Bảng 3). Mức trọng lượng cơ thể cuối cùng (FBW), tăng trọng (WG) hoặc tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR) cao nhất được quan sát thấy ở tôm được cho ăn chế độ ăn EPH0,4%, cao hơn đáng kể so với tôm được cho ăn chế độ ăn DMPT0,1%. (p < 0,05). Đối với các chế phẩm sinh học của E. prolifera, tôm được cho ăn 0,4% E. prolifera thủy phân có hàm lượng FBW, WG hoặc SGR cao nhất, tiếp theo là 3% bột E. prolifera, 0,2% E. prolifera thủy phân và 0,03 % polysaccharide của E. prolifera. Lượng thức ăn của tôm được cho ăn chế độ ăn EPH0,4%, EPM3% và DMPT0,1% cao hơn đáng kể so với tôm được cho ăn chế độ ăn đối chứng (p < 0,05). Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn bị ảnh hưởng đáng kể bởi các phương pháp điều trị bằng khẩu phần, trong đó tôm được cho ăn chế độ ăn EPH0,2% có tỷ lệ thấp hơn so với tôm được cho ăn chế độ ăn DMPT0,1% (p < 0,05). Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein và giá trị sản xuất protein giữa tất cả các nhóm (p > 0,05). 

Bảng 3

Bảng 3. Tăng trưởng và sử dụng thức ăn trong khẩu phần thí nghiệm

Kết quả về thành phần cơ thịt tôm 

Thành phần gần đúng của toàn bộ cơ thể tôm được thể hiện trong Bảng 4. Hàm lượng protein thô, lipid thô, độ ẩm và tro không bị ảnh hưởng bởi các chế độ ăn (p > 0,05). 

Bảng 4
Bảng 4. Kết quả phân tích cơ thịt tôm (% trọng lượng ướt). 

Kết quả các thông số sinh hóa liên quan đến chuyển hóa lipid ở gan tụy và huyết tương 

Nhuộm dầu màu đỏ O của gan tụy tôm được trình bày trong Hình 2. Quan sát định tính tổng quát cho thấy phân tích mô học ở gan tụy của tôm được cho ăn chế phẩm sinh học của E. prolifera có lượng giọt lipid thấp hơn so với nhóm đối chứng. Kết quả này được hỗ trợ bởi triacylglycerols (TG) của gan tụy (Bảng 5), trong đó nồng độ của nó nằm trong khoảng từ 4,41 đến 5,93 mmol/L trong số tất cả các nhóm sinh phẩm E. prolifera, thấp hơn hoặc thấp hơn đáng kể (p < 0,05) so với nhóm đối chứng (9,34 mmol/L).  

Các thông số sinh hóa liên quan đến chuyển hóa lipid huyết tương được trình bày trong Bảng 5. Nồng độ TG huyết tương ở tôm được cho ăn chế phẩm sinh học E. prolifera, đặc biệt là ở các chế độ ăn EPH0,4%, EPP0,03% và EPM3%, giảm đáng kể so với cá ăn chế độ ăn bổ sung EPH0,4%, EPP0,03% và EPM3%. khẩu phần đối chứng và DMPT0,1% (p < 0,05). Ngoài ra, nồng độ LDL-C huyết tương của nhóm chế phẩm sinh học E. prolifera có xu hướng giảm so với chế độ ăn đối chứng (p > 0,05) và thấp hơn đáng kể so với nhóm DMPT0,1% (p < 0,05). Tuy nhiên, HDL-C trong huyết tương không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn uống (p > 0,05). 

Hình 2

Hình 2. Hình ảnh ví dụ về mô học gan tụy của tôm được cho ăn khẩu phần thí nghiệm. (A) (Điều khiển), (B) (EPH0,2%), (C) (EPH0,4%), (D) (EPP0,03%), (E) (EPM3%), (F) (DMPT0 0,01%) và (G) (SP1%) được đo ở độ phóng đại vật kính 40×. Giọt lipid có màu đỏ cam hoặc đỏ tươi và nhân có màu xanh lam. 

Bảng 5

Bảng 5. Các thông số sinh hóa liên quan đến chuyển hóa lipid trong huyết tương và gan tụy của tôm (mmol/L) 

Kết quả về các thông số chống oxy hóa và miễn dịch trong huyết tương 

Các thông số chống oxy hóa trong huyết tương được trình bày ở Bảng 5. So với nhóm đối chứng, chế phẩm sinh học của E. prolifera làm tăng hàm lượng GSH huyết tương ở một mức độ nào đó, đặc biệt là 0,03% polysaccharide của E. prolifera (p < 0,05). Tuy nhiên, hoạt động của GPx trong huyết tương không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn uống (p > 0,05). Hoạt tính SOD huyết tương ở tôm được nuôi bằng chế phẩm sinh học E. prolifera tăng hoặc tăng đáng kể (p < 0,05) so với khẩu phần đối chứng và ngược lại làm giảm nồng độ MDA huyết tương. 

Bảng 6
Bảng 6. Các thông số miễn dịch và chống oxy hóa trong huyết tương 

Biểu hiện tương đối mRNA của yếu tố hoại tử khối u-α ở gan tụy 

Biểu hiện gen của cytokine gây viêm (yếu tố hoại tử khối u-α, tnf-α) đã được xác định trong gan tụy (Hình 2). Các sản phẩm sinh học của E. prolifera (EPH0,2%, EPH0,4% và EPM3%) điều chỉnh giảm đáng kể sự biểu hiện của tnf-α so với cá được cho ăn chế độ ăn đối chứng (p < 0,05). Ngoài ra, biểu hiện tnf-α gan tụy cho thấy giảm nhẹ ở nhóm EPP0,03%, mặc dù không có sự khác biệt về mặt thống kê so với nhóm đối chứng (p > 0,05). 

Hình 2
Hình 2. Biểu hiện mRNA tương đối của yếu tố hoại tử khối u-α (tnf-α) trong gan tụy. Dữ liệu được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± sai số chuẩn (n = 3).  

Tóm lại, lượng sản phẩm sinh học của E. prolifera được thêm vào thức ăn, từ bột E. prolifera (3%), E. prolifera thủy phân (0,2–0,4%) đến E. prolifera polysaccharide (0,03%), đã giảm đi gần như bậc độ lớn. Tuy nhiên, không có sự khác biệt rõ rệt về hoạt động sinh học của E. prolifera giữa các phương pháp điều trị, bao gồm tác dụng thu hút, hoạt động hạ lipid máu, chống oxy hóa, điều hòa miễn dịch và kháng stress. Nó xác nhận rằng các sản phẩm sinh học của E. prolifera dựa trên các quy trình xử lý khác nhau có thể được sử dụng để giảm lượng E. prolifera trong thức ăn mà không ảnh hưởng đến chức năng sinh học của chúng. 

Đăng ngày 29/02/2024
L.X.C @lxc
Khoa học

Lipid sinh học của tôm: Một kho báu dinh dưỡng

Các thành phần lipid trong tôm là cực kỳ phong phú và có thể mang lại lợi ích về sức khỏe. Một bài đánh giá khoa học do các nhà nghiên cứu từ Đại học Democritus công bố đã đi sâu vào thành phần lipid của nhiều loài tôm khác nhau, tập trung vào lợi ích sức khỏe tiềm năng của các hợp chất hoạt tính sinh học của chúng. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Marine Drugs của MDPI, giải thích cách các lipid này có thể góp phần phòng ngừa và điều trị các bệnh mãn tính, bao gồm các rối loạn tim mạch, tiểu đường, bệnh thoái hóa thần kinh và ung thư.

Lipid
• 12:00 13/01/2025

Các mục tiêu kháng vi-rút tiềm năng trong quá trình nhiễm vi-rút hoại tử cơ ở tôm thẻ chân trắng

Trong những năm gần đây, giải trình tự phiên mã đã được áp dụng rộng rãi để nghiên cứu tương tác giữa virus và vật chủ. Bằng cách so sánh các hồ sơ biểu hiện gen vật chủ ở các giai đoạn nhiễm khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể xác định các yếu tố chính và những thay đổi trong đường dẫn truyền tín hiệu do nhiễm virus gây ra, giúp nhận định được các chiến lược xâm nhập của virus và cơ chế kháng vi-rút của vật chủ.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:53 18/12/2024

Hướng đi mới trong nuôi trồng thủy sản: Mô hình Aquaponics

Mô hình Aquaponics đang được xem là một trong những giải pháp đột phá cho ngành nuôi trồng thủy sản trong thời kỳ hiện đại. Không chỉ kết hợp hiệu quả giữa nuôi thủy sản và trồng cây trong hệ thống tuần hoàn khép kín, mô hình này còn tối ưu hóa tài nguyên, mang lại lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường.

Mô hình Aquaponics
• 14:27 16/12/2024

Giải pháp công nghệ hiện đại trong kiểm soát rận biển trên cá hồi

Rận biển, một loại ký sinh trùng nguy hiểm, đang trở thành vấn đề lớn trong ngành nuôi trồng cá hồi. Chúng không chỉ gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe cá mà còn làm giảm năng suất và gia tăng chi phí sản xuất.

Cá hồi
• 10:20 12/12/2024

Hiệu quả của các loại thuốc vi sinh trong phòng trị bệnh phân trắng ở tôm

Bệnh phân trắng là một trong những thách thức lớn đối với ngành nuôi trồng thủy sản, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế do tỷ lệ chết cao và giảm năng suất.

Tôm phân trắng
• 15:15 05/02/2025

Cá có ngủ không? Và những sự thật kỳ lạ dưới lòng đại dương

Nhắc đến giấc ngủ, chúng ta thường hình dung đến những trạng thái nghỉ ngơi tuyệt đối như nhắm mắt, nằm yên và thư giãn.

Cá
• 15:15 05/02/2025

Thuần hóa tôm giống

Trong quá trình nuôi tôm, bước thuần hóa tôm giống đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đây là giai đoạn giúp tôm giống thích nghi với môi trường ao nuôi, hạn chế tối đa sốc môi trường và các rủi ro về sức khỏe. Nếu thực hiện tốt, việc thuần hóa sẽ giúp tôm phát triển khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh và giảm nguy cơ bệnh tật.

tôm giống
• 15:15 05/02/2025

Sự thật về rùa tai đỏ và lý do chúng bị cấm nuôi

Rùa tai đỏ là một trong những loài rùa cảnh được nuôi phổ biến tại Việt Nam. Với màu sắc bắt mắt và khả năng thích nghi tốt, nhiều người yêu thích và chọn nuôi chúng. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết rằng loài rùa này tiềm ẩn nhiều vấn đề về môi trường và pháp lý. Liệu nuôi rùa tai đỏ có hợp pháp không? Chúng có gây hại gì không? Hãy cùng Tép Bạc tìm hiểu kỹ tất tần tật về rùa tai đỏ trong bài viết dưới đây!

Rùa tai đỏ
• 15:15 05/02/2025

Phân biệt và lựa chọn tôm giống chất lượng cao

Trước nhu cầu con giống tăng và sự tràn lan của nhiều cơ sở nhỏ lẻ nhập khẩu tôm bố mẹ không rõ nguồn gốc, chất lượng thấp, giá rẻ để sản xuất giống thì việc chọn giống tốt, sạch bệnh được xem là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo thành công của vụ nuôi.

Tôm giống
• 15:15 05/02/2025
Some text some message..