Virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV) đã được phát hiện ở Đông Nam Á vào năm 1992 và hiện đang là mầm bệnh gây bệnh quan trọng nhất ảnh hưởng đến tôm nuôi trên toàn thế giới. Virus này gây tử vong 100% trong vòng 7 đến 10 ngày ở các trang trại nuôi tôm thương phẩm, gây ra thiệt hại kinh tế lớn cho ngành nuôi tôm. WSSV thuộc họ Nimaviridae và giống Whispovirus với bộ gen DNA kép và được đánh giá là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với ngành nuôi trồng thủy sản trên toàn thế giới. Các nghiên cứu về phản ứng miễn dịch của tôm đối với nhiễm virus là rất hạn chế; tuy nhiên, sự hiện diện của các protein ức chế virus và sự điều tiết đặc biệt của các gen khi nhiễm virut đã được chứng minh. Hơn nữa, kích thích miễn dịch và tiêm vắcxin bằng vi khuẩn Vibrio spp. gây bất hoạt sẽ bảo vệ tôm chống lại Vibrio và WSSV. Các loài Vibrio nổi tiếng trong nuôi tôm penaeid là những tác nhân gây bệnh vibrio. Trong nghiên cứu này, V. paraheomolyticus cùng với WSSV được chiếu xạ bằng tia gamma để trở thành V. paraheamolyticus và WSSV bất hoạt như một chất kích thích sinh lý và kích thích miễn dịch tôm chống lại WSSV được kiểm tra.
V. paraheomolyticus được nuôi cấy trên môi trường thạch TCBS và số lượng vi khuẩn của các mẫu chiếu xạ và không bị chiếu xạ được xác định bằng CFU/mL. Liều tia gamma tối ưu để gây bất hoạt V. paraheamolyticus là 9,98 kGy. V. paraheomolyticus đã bị bất hoạt bởi 10 kGy bức xạ gamma được sử dụng làm probiotic để tăng cường đáp ứng miễn dịch cho tôm.
Liều chiếu xạ gamma đối với V.paraheomolyticus
Đối với WSSSV, liều gamma tối ưu cho sự gây bất hoạt là 15 kGy.
Thử nghiệm đưa V.paraheamolyticus và WSSV bất hoạt vào tôm giống (1gram)bằng phương pháp ngâm đã cho kết quả khả quan khi không thấy tôm tử vong sau ngưng cấp vaccine.
So sánh giữ các loại vaccine
Thí nghiệm 2 có 5 nhóm tôm được thí nghiệm với các loại vaccine sau:
+ Nhóm 1: GI-WSSV đơn thuần
+ Nhóm 2: GI-WSSV + GI-VP
+ Nhóm 3: Kiểm soát vi khuẩn dương tính (chỉ riêng GI-VP)
+ Nhóm 4: Kiểm soát âm tính (tiêm PBS)
+ Nhóm 5: Không tiêm
Các nhóm tôm được cấp các loại vaccine khác nhau, sau đó tiến hàng gây nhiễm thực nghiệm với mầm bệnh WSSV.
Kết quả
Sau 10 ngày kể từ ngày cấp vaccine (Day 10 post immunization – dpi), tỷ lệ tử vong tích lũy ở các nhóm tôm lần lượt là 20%, 10%, 55%, 0% và 75%.
Giá trị tỷ lệ sống tương đối (Relative percent survival – RPS) là 73,3%, 86,66% và 26,66% đối với các nhóm vaccine 1, 2 và 3 được thẻ hiện trong bảng sau:
Vaccinee groups |
Route of administration: Injection (IM) |
|||
Dead/tested |
Mortality (%) |
RPS (%) |
p-value |
|
GI-WSSV vaccinee |
4/20 |
20 |
73.33 |
< 0.05 |
GI-WSSV vaccinee + GI-V.P |
2/20 |
10 |
86.66 |
< 0.05 |
GI-V.P (probiotic) |
11/20 |
55 |
26.66 |
< 0.05 |
Virus positive control |
15/20 |
75 |
0 |
< 0.05 |
Negative control |
0/20 |
0 |
100 |
|
Trong đó, tỷ lệ tử vong nhận thấy có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm tôm cấp vaccine (GI-WSSV – nhóm 1 và GI-WSSV + GI-V.P – nhóm 2) so với nhóm đối chứng chứng không cấp vaccine – nhóm 5 (P <0,05). Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ tử vong tích lũy giữa hai nhóm tiêm vắc xin (P> 0,05). Vì vậy, có thể gợi ý rằng vắc-xin GI-WSSV (nhóm 1) có thể gây phản ứng miễn dịch ở tôm nhiễm WSSV và và probiotic (GI-VP) có thể làm tăng các phản ứng này.
Kết quả PCR cho các mô và tế bào máu của tôm nhiễm WSSV; Ngõ 1: Thang DNA (10000-250 bp, Fermentas SM0313); Vạch 2-16: Kết quả PCR của mô và huyết tương của tôm nhiễm WSSV; Lan 18-19: Chuỗi ADN của bộ chẩn đoán IQ 2000 (Từ trên xuống dưới: 848, 630 và 333 bp), Ngõ 17: kiểm soát âm tính.
Kết luận
Theo nghiên cứu này, GI-WSSV có thể gây ra đáp ứng miễn dịch ở tôm nhiễm WSSV, và probiotic (GI-VP) có thể làm tăng các phản ứng này. Nghiên cứu này góp phần tăng cường các chiến lược thực tiễn để kiểm soát WSSV cũng như các mầm bệnh khác. Hơn nữa, GI-V.P có thể được sử dụng như một probiotics có thể tăng cường miễn dịch tôm đối với WSSV.
Theo Motamedi-Sedeh, Afsharnasab, Heidarieh