Nguyên nhân
Do môi trường: Khi nuôi tôm với mật độ cao, sục khí không đủ, không thay nước, ít sử dụng vi sinh xử lý đáy, hàm lượng thức ăn dư thừa, xác tảo, chất thải hữu cơ trong quá trình nuôi tích tụ đáy ao, làm cho đáy ao dơ, các chất này sẽ bám vào mang tôm và tạo thành hiện tượng đen mang (đôi khi mang tôm bị vàng chứ không đen, nâu). Trong ao tồn tại khí độc như NH3, NO2 nếu hàm lượng trong ao cao sẽ làm mang tôm rám đen, tổn thương hoặc nếu nồng độ quá cao có thể gây đen mang nghiêm trọng và gây tỷ lệ chết cao.
Nhiễm kim loại nặng: Tôm sống trong điều kiện pH thấp, có nhiều ion kim loại nặng như nhôm, sắt, muối của các kim loại này kết tụ trên mang của tôm làm nó chuyển màu đen.
Do thiếu dinh dưỡng: Môi trường nước thiếu tảo, thiếu Vitamin C và các loại khoáng chất thiết yếu.
Do tảo, sinh vật bám: Tôm trong ao có hiện tượng bị đóng rong, các sinh vật bám như động vật đơn bào, vi khuẩn dạng sợi, tảo, nấm bám trên mang và bề mặt cơ thể của tôm. Các sinh vật này tạo điều kiện cho các chất bẩn hữu cơ bám và làm mang tôm chuyển màu.
Do vi khuẩn, nấm: Khi mang tôm bị nhiễm vi khuẩn (thường là Vibrio) hay nhiễm nấm Fusarium này cũng làm xuất hiện các sắc tố melanin làm mang tôm có màu đen. Khi tôm nhiễm nấm Fusarium: Có thể thấy được sợi nấm khi soi tươi mang tôm bệnh bằng kính hiển vi. Các loài nấm thuộc giống Fusarium có trong nước ngọt, nước lợ và đất ở khắp nơi. Tất cả các loài tôm nuôi đều có thể bị nhiễm nấm. Tôm gần trưởng thành và trưởng thành thường bị nhiễm nặng. Tôm sú và TTCT tương đối đề kháng được với nấm nhưng khi bệnh xảy ra rất khó điều trị.
Do ngoại ký sinh trùng: Như nguyên sinh động vật (Lagenophrys), Paramoeba sp (trùng amip), sợi khuẩn (Leucothrix mucor), Hyalophysa chattoni… Một nghiên cứu mới đây của Jee EunHan và cộng sự đăng trên Tạp chí Aquaculture đã phát hiện ra ký sinh trùng amip mới gây bệnh đen mang trên TTCT là Paramoeba sp. Rất có thể nhiễm trùng amip là do các yếu tố căng thẳng, chẳng hạn như nhiệt độ nước tăng hoặc độ mặn cao, kết hợp với mật độ thả cao tạo ra lợi thế cho protozoan tự nhiên có trong môi trường biển gây bệnh. Ở tôm, nhiễm amip đã dẫn đến tỷ lệ chết đáng kể và thiệt hại kinh tế liên quan.
Biểu hiện
Trên tôm
- Mang tôm có màu đen, trước khi chuyển sang màu đen mang tôm chuyển từ màu đỏ sang màu nâu sáng, cuối cùng là đen.
- Tôm nổi đầu, bơi lờ đờ trên mặt nước do thiếu oxy.
- Tôm có hiện tượng bỏ ăn, chậm lớn, rớt dần.
- Có thể kèm theo các hiện tượng như hoại tử chóp râu, roi, 19 cuống mắt, telson, phụ bộ trong trường hợp tôm bị nhiễm nấm.
Dấu hiệu dễ nhận biết khi tôm nhiễm bệnh là mang dần chuyển sang màu đen
Môi trường ao nuôi
- Khi tôm bị nhiễm bệnh đen mang, trong ao sẽ xuất hiện nhiều bùn đen, tảo dày, khí độc cao.
- Ao nuôi có mật độ con giống cao, sục khí không đủ, ít sử dụng vi sinh xử lý đáy, không xi phông, không thay nước.
Điều trị
Khi có hiện tượng bệnh lý xuất hiện cần tìm hiểu xem tôm bị đen mang do nguyên nhân nào. Kiểm tra chất lượng nước và đáy ao là yêu cầu đầu tiên khi xác định bệnh.
Nếu do ao bị ô nhiễm: Cần xiphong bùn đáy ao, dùng yucca hấp thụ khí độc sau đó sử dụng men vi sinh liều cao (việc này có 2 mục đính đó là phân hủy mùn bã và cạnh tranh với vi khuẩn có hại) đồng thời bổ sung Vitamin C vào thức ăn.
Nếu bệnh do nấm: Rất khó điều trị, chỉ có thể loại bỏ tôm bệnh và cải tạo chất lượng nước. Tôm bệnh do nấm chỉ có thể hồi phục 30%.
Nguyên sinh động vật: Có thể diệt bằng thuốc tím, đồng sulfate, Formalin. Các hóa chất này có liều lượng rất khác nhau tùy theo môi trường nước nên khó đưa ra liều khuyến cáo.
Do vi khuẩn: Cần hạn chế bổ sung thêm nguồn hữu cơ (cho ăn, xử lý các thuốc, hóa chất hữu cơ, diệt rong tảo); giảm 50% thức ăn trong 2 – 3 ngày, tùy tỷ lệ đen mang trong chài. Cho ăn lượng thức ăn nhỏ, ven bờ trong thời gian ngắn để hạn chế hao tổn ôxy. Trộn kháng sinh hoặc vi sinh vào thức ăn (nếu kết quả cấy khuẩn thấy mật độ khuẩn cao thì nên ăn kháng sinh).