Ulvan có tác dụng như thế nào với tôm thẻ chân trắng

Ulvan, một polysaccharide sunfat có trong thành tế bào của rong xanh thuộc chi Ulvale, có liên quan chặt chẽ với sự phát triển của tảo ở vùng nước ven biển và đầm phá đang trải qua quá trình phú dưỡng (Fletcher, 1996).

Tôm thẻ chân trắng
Tôm thẻ chân trắng. Ảnh: truongsinhgialai.com

Rong xanh thường chứa 9-36% w/v polysacarit sunfat ở dạng Ulvan, một loại dị polysacarit có đặc tính anion và trọng lượng phân tử nằm trong khoảng 150-2000 kDa. Polysacarit này bao gồm các monosacarit như rhamnose (45%), axit glucuronic (22,5%), xyloza (9,6%) và axit iduronic (5%) (Lahaye & Robic, 2007). Hơn nữa, Ulvan được đặc trưng bởi thành phần hóa học bao gồm axit Ulvanobiuronic và Ulvanobiose dưới dạng các disacarit định kỳ, chỉ có ở Ulvan (Cindana Mo’o và cộng sự, 2020; Kidgell và cộng sự, 2019; Mohan và cộng sự, 2019). Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Indonesia được thực hiện nhằm mục đích đánh giá tác động của Ulvan lên hoạt động tiêu hóa protein, chẳng hạn như trypsin, đồng thời kiểm tra cụ thể mọi tác dụng phụ tiềm ẩn hoặc tác dụng hiệp đồng trong việc tăng cường chức năng miễn dịch của tôm. 

Ulvan được sấy khô và bổ sung vào thức ăn tôm với liều lượng 0,15% (1500 mg/kg thức ăn) (Thức ăn viên thương mại SGH®, PT Suri Tani Pemuka, Indonesia). Mỗi loại trong số bốn loại chiết xuất (P-HWE, O-HWE, P-A-HWE và O-A-HWE) đã được chuẩn bị bổ sung 1500 mg thức ăn. Điều này bao gồm việc hòa tan chiết xuất theo tỷ lệ 30:1 (w/v) trong nước vô trùng và phun đều lên thức ăn, sau đó sấy khô ở nhiệt độ phòng. Thức ăn chứa chiết xuất đã được cân, chuẩn bị làm thức ăn dự trữ và quản lý theo lịch cho ăn hàng ngày cho mỗi lần nghiệm thức. Thức ăn viên thương mại SGH®, tương đương 5% trọng lượng cơ thể trung bình mỗi ngày, được cho ăn bốn lần mỗi ngày (04:00, 10:00, 16:00 và 22:00). Phân tích gần đúng về thức ăn SGH® cho thấy: hàm lượng nước là 11%; đạm 32-36%; lipid 6,5-7,0%; chất xơ thô 3%; tro 12% và năng lượng 16,5-17,0 MJ kg−1. 

Các phương pháp chiết xuất chính được sử dụng là chiết xuất bằng nước nóng polysacarit (P-HWE) và chiết xuất bằng nước nóng axit polysacarit (P-A-HWE) với H2O2 và axit ascorbic. Sau đó, dịch chiết P-HWE được tạo ra được chuyển thành dịch chiết nước nóng oligosacarit (O-HWE), và dịch chiết P-A-HWE được tạo ra sau đó được chuyển thành dịch chiết nước nóng axit oligosacarit (O-A-HWE) bằng cách đun nóng. 

Thí nghiệm sử dụng một thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên. 375 cá thể tôm khỏe mạnh (5,45 – 6,22 g) được lấy từ Trung tâm Phát triển Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ Jepara. Tôm được thả trong các bể nhựa (145 L) với mật độ 25 con/bể. Các bể được sục khí và khoảng 10% lượng nước được thay mới diễn ra hàng ngày ( Azhar & Yudiati, 2023; Yudiati và cộng sự, 2019). Các thông số nước được theo dõi về độ pH (7,99 – 8,40), oxy hòa tan (5,22 – 5 \,51 mg/L), độ mặn (30 ppt), nhiệt độ (29,33 – 31,09oC), nồng độ nitrat, nitrit và amoniac không bị phát hiện bằng Merck colorimetrickits. Tỷ lệ sống (%) được đánh giá khi kết thúc thí nghiệm. Ba mẫu tôm riêng lẻ từ mỗi lần lặp lại được thu thập hàng ngày để phân tích thông số miễn dịch trong mười ngày. Sau khi đạt được hoạt tính trypsin tối đa, các thí nghiệm tiếp theo được tiến hành bằng cách sử dụng Ulvan để xác định thời gian nhanh nhất nó có thể đạt được hoạt động trypsin tối đa. Các nồng độ khác nhau đã được sử dụng, trong đó Ulvan được thêm vào thức ăn cho tôm ở nồng độ 0 g kg−1 (đối chứng), 0,75 g kg−1 (ULV-0,75), 1,50 g kg−1 (ULV-1,50) và 3,00 g kg− 1 (ULV-3,00) thức ăn. 

Trypsin, một serine protease, hỗ trợ tiêu hóa protein và thúc đẩy sản xuất các enzyme tiêu hóa khác (Lemos et al., 2000). Ở tôm thẻ chân trắng, protease giống trypsin của nó đóng vai trò quan trọng trong việc phá vỡ các protein sợi cơ và collagen, dẫn đến làm mềm cơ (Peng và cộng sự, 2019). Nghiên cứu này chứng minh mối tương quan tích cực giữa chất kích thích miễn dịch Ulvan và sản xuất trypsin. Dựa trên Hình 1, mức tăng hoạt động trypsin nhanh nhất và cao nhất khác biệt đáng kể so với đối chứng, xảy ra vào ngày thứ 4 đối với O-A-HWE. Vào những ngày khác, hoạt tính trypsin vượt quá đáng kể mức kiểm soát trong O-A-HWE vào ngày 2, 3, 7 và 8, trong khi nó thấp hơn đáng kể so với mức kiểm soát vào ngày 6.

Một chiết xuất khác, P-HWE, cho thấy hoạt tính trypsin cao hơn đáng kể so với đối chứng vào ngày 3, 4, 6, 7, 8 và 9. Tương tự, một chiết xuất khác, O-HWE, thể hiện hoạt tính trypsin cao hơn đáng kể so với đối chứng vào ngày 2, 3, 8 và 9 và hoạt động thấp hơn đáng kể vào ngày thứ 4. Một chiết xuất khác, P-A-HWE, cho thấy hoạt tính trypsin cao hơn đáng kể so với đối chứng vào ngày 4, 7 và 8, trong khi nó thấp hơn đáng kể vào ngày 9. Hơn nữa, nghiên cứu của các tác giả nhấn mạnh ý nghĩa rộng hơn của chất kích thích miễn dịch trong nuôi trồng thủy sản. Mặc dù các chất kích thích miễn dịch như Ulvan có thể không trực tiếp làm tăng protein tiêu hóa nhưng chúng rất quan trọng trong việc hỗ trợ sinh tổng hợp hệ thống miễn dịch, ảnh hưởng gián tiếp đến hiệu quả tiêu hóa protein. 

Hình 1
Hình 1. Hoạt động của trypsin ở tôm thẻ trước, mỗi ngày và ngày thứ 10 nuôi bằng việc bổ sung P-HWE, O-HWE, P-A-HWE và O-A-HWE qua đường miệng vào thức ăn. Các chữ cái phía trên các thanh biểu thị sự khác biệt đáng kể (p < 0,05, kiểm tra LSD) 

Sự thay đổi hoạt động của Trypsin trong bốn ngày với ba liều Ulvan khác nhau (O-A-HWE) 

Nhận dạng mẫu đóng vai trò là giai đoạn ban đầu của khả năng miễn dịch bẩm sinh. Các chất kích thích miễn dịch, giống như bất kỳ bệnh nhiễm trùng nào, được xác định trong thể máu của tôm thông qua việc nhận biết các PAMP khác nhau có trong các chất kích thích miễn dịch. Không giống như các phản ứng đặc hiệu với kháng nguyên, việc sử dụng các chất kích thích miễn dịch gây ra phản ứng rộng rãi giúp đẩy nhanh việc phát hiện và loại bỏ nhiều loại mầm bệnh truyền nhiễm (Secombes, 1994). Hơn nữa, hệ thống miễn dịch của tôm thẻ có thể được tăng cường thông qua việc sử dụng các chất bổ sung polysaccharide từ rong biển bằng đường uống, sử dụng các con đường nhận biết như Lipopolysaccharide và Protein liên kết β-1,3-Glucan (Azhar & Yudiati, 2023; Chen và cộng sự, 2016b; Yudiati và cộng sự, 2016;).  

Hình 2
Hình 2: Hoạt tính trypsin (Đơn vị mg−1 protein) của tôm thẻ được cho ăn khẩu phần có bổ sung Ulvan ở mức 0 g kg−1 (đối chứng), 0,75 g kg−1, 1,50 g kg−1 và 3,00 g kg−1 vào ngày thứ 0. Các điểm dữ liệu có các chữ cái khác nhau tại cùng thời điểm lấy mẫu cho thấy sự khác biệt đáng kể (p < 0,05) 

Hình 3
Hình 3. Hoạt tính trypsin (Đơn vị mg−1 protein) của tôm thẻ được cho ăn khẩu phần có bổ sung Ulvan ở mức 0 g kg−1 (đối chứng), 0,75 g kg−1, 1,50 g kg−1 và 3,00 g kg−1 vào ngày thứ 1. Các điểm dữ liệu có các chữ cái khác nhau tại cùng thời điểm lấy mẫu cho thấy sự khác biệt đáng kể (p < 0,05) 

Hình 4
Hình 4. Hoạt tính trypsin (Đơn vị mg−1 protein) của tôm thẻ được cho ăn khẩu phần có bổ sung Ulvan ở mức 0 g kg−1 (đối chứng), 0,75 g kg−1, 1,50 g kg−1 và 3,00 g kg−1 vào ngày thứ 2. Các điểm dữ liệu có các chữ cái khác nhau tại cùng thời điểm lấy mẫu cho thấy sự khác biệt đáng kể (p < 0,05)

Hình 5
Hình 5. Hoạt tính trypsin (Đơn vị mg−1 protein) của tôm thẻ được cho ăn khẩu phần có bổ sung Ulvan ở mức 0 g kg−1 (đối chứng), 0,75 g kg−1, 1,50 g kg−1 và 3,00 g kg−1 vào ngày thứ 3. Các điểm dữ liệu có các chữ cái khác nhau tại cùng thời điểm lấy mẫu cho thấy sự khác biệt đáng kể (p < 0,05)

Hình 6
Hình 6. Hoạt tính trypsin (Đơn vị mg−1 protein) của tôm thẻ được cho ăn khẩu phần có bổ sung Ulvan ở mức 0 g kg−1 (đối chứng), 0,75 g kg−1, 1,50 g kg−1 và 3,00 g kg−1 vào ngày thứ 4. Các điểm dữ liệu có các chữ cái khác nhau tại cùng thời điểm lấy mẫu cho thấy sự khác biệt đáng kể (p < 0,05)


Dựa trên Hình 2, hoạt động trypsin của tôm thẻ chân trắng được nuôi bằng chế độ ăn bổ sung các liều Ulvan khác nhau cho thấy không có sự khác biệt đáng kể so với đối chứng. Dựa trên Hình 3, hoạt tính trypsin của tôm thẻ được cho ăn khẩu phần có bổ sung các liều Ulvan khác nhau cho thấy không có sự khác biệt đáng kể so với đối chứng vào ngày 1. Dựa trên Hình 4, hoạt tính trypsin của tôm thẻ chân trắng được cho ăn với chế độ ăn bổ sung các liều Ulvan khác nhau cho thấy sự khác biệt đáng kể so với đối chứng vào ngày thứ 2. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát thấy giữa các liều. Dựa trên Hình 5, trypsin, hoạt động của tôm thẻ được nuôi bằng chế độ ăn bổ sung các liều Ulvan khác nhau cho thấy sự khác biệt đáng kể so với đối chứng vào ngày thứ 3. Cụ thể, ULV-1,50 g kg−1 thể hiện sự khác biệt đáng kể so với Hình 5. đến ULV-0,75 g kg-1, trong khi không quan sát thấy sự khác biệt đáng kể so với ULV-3,00 g kg-1. Dựa trên Hình 6, hoạt tính trypsin của tôm thẻ được nuôi bằng chế độ ăn bổ sung liều ULV-1,50 g kg-1 và ULV-3,00 g kg-1 của Ulvan cho thấy sự khác biệt đáng kể so với đối chứng và ULV-0,75 g kg−1 vào ngày thứ 3. Tuy nhiên, ULV-0,75 g kg−1 không thể hiện sự khác biệt đáng kể so với đối chứng vào ngày thứ 3. 

Như vậy, O-A-HWE có hoạt tính trypsin tăng cao nhất vào ngày thứ 4, vượt mức kiểm soát vào ngày 2, 3, 7 và 8. Các phương pháp khác (P-HWE, O-HWE và P-A-HWE) cũng ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của trypsin vào những ngày cụ thể. Mặc dù hoạt động của trypsin không khác biệt so với đối chứng vào ngày 0 và 1, nhưng sự khác biệt xuất hiện vào ngày 2 và 3, đặc biệt là giữa ULV-1,50 g kg−1 và ULV-0,75 g kg−1. ULV-3,00 g kg-1 cho thấy không có sự khác biệt đáng kể so với ULV-1,50 g kg-1. O-A-HWE cho thấy sự khác biệt đáng kể trong hoạt động của trypsin so với các chất chiết xuất Ulvan khác, cho thấy tiềm năng của nó trong việc tăng cường sức khỏe tôm. Cần nghiên cứu sâu hơn để hiểu tác dụng lâu dài và liều lượng tối ưu của Ulvan cũng như các nghiên cứu so sánh trong tương lai của nó với các chất kích thích miễn dịch khác trong NTTS.  

Đăng ngày 15/07/2024
L.X.C @lxc
Khoa học

Ảnh hưởng của nhiệt độ lên tỉ lệ giới tính ấu trùng tôm sú

Ở tôm sú, con cái lớn nhanh và có kích thước lớn hơn con đực. Tác động của nhiệt độ có thể làm tăng đáng kể sự biểu hiện của các gen xác định giới tính, giúp cải thiện tỷ lệ giới tính như mong muốn trong đàn.

tôm sú
• 16:28 23/09/2021

Trung Quốc chuyển sang nuôi tôm sú vì giá cao

Người nuôi tôm ở Trung Quốc đang chuyển sang nuôi tôm sú nhiều hơn do giá tốt hơn, theo Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản lớn nhất của Trung Quốc.

tôm sú
• 18:44 17/08/2021

Nuôi tôm thâm canh bổ sung thức ăn tươi sống

Thử nghiệm nuôi tôm sú bằng tảo lục sợi (Chaetomorpha sp.) và ốc (Stenothyra sp.) cho thấy cải thiện tăng trưởng, nâng cao năng suất và tăng cường hấp thu, chuyển hóa thức ăn nhân tạo góp phần giảm chi phí sản xuất cho người nuôi.

ốc cho tôm ăn
• 17:12 28/07/2021

Hiệu quả từ nuôi tôm kết hợp thả cá rô phi xử lý nguồn nước

Hiện nay, nuôi tôm kết hợp cá rô phi xử lý nước ở ấp Vĩnh Điền (xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải) được xem là mô hình cho hiệu quả kinh tế cao.

Cá rô phi
• 10:23 19/07/2021

Mô hình CTU-RAS quy mô nông hộ - Giải pháp cho ngành tôm

Nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng đã từng bước khẳng định vị thế trong ngành hàng tôm của Việt Nam, không ngừng gia tăng về diện tích nuôi và sản lượng nuôi.

Tôm
• 08:00 04/11/2025

Tên khoa học của tôm thẻ chân trắng là Penaeus vannamei hay Litopenaeus vannamei?

Nhiều người không khỏi bối rối khi bắt gặp hai tên khoa học của tôm thẻ chân trắng là: Penaeus vannamei và Litopenaeus vannamei. Vậy, đâu mới là danh pháp chính xác theo hệ thống phân loại khoa học hiện đại, và tại sao sự nhầm lẫn này lại tồn tại?

tên khoa học của tôm thẻ chân trắng
• 15:21 17/07/2025

Vắc-xin uống từ vi tảo

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu đang chịu áp lực bởi các đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng, vắc-xin được xem là giải pháp hiệu quả để nâng cao miễn dịch và giảm sự phụ thuộc vào hóa chất. Một xu hướng nổi bật gần đây là ứng dụng vi tảo làm nền tảng sản xuất vắc-xin, mở ra triển vọng phát triển các loại vắc-xin uống bền vững, hiệu quả và ít tốn kém.

Vi tảo
• 10:50 13/06/2025

Nguyên liệu lên men: Một xu hướng mới trong dinh dưỡng thủy sản

Thức ăn thương mại đóng vai trò then chốt trong sản xuất nuôi trồng thủy sản, do chiếm từ 50% đến 70% tổng chi phí sản xuất.

Thức ăn tôm
• 10:50 03/06/2025

Listeria: Mối nguy sinh học không thể xem nhẹ trong xuất khẩu thủy sản

Trong chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu, Listeria monocytogenes nổi lên như một trong những mầm bệnh nguy hiểm và khó kiểm soát nhất. Với khả năng tồn tại trong môi trường lạnh và gây ra bệnh Listeriosis nghiêm trọng, nó đã trở thành một rào cản kỹ thuật mà mọi doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đều phải đối mặt.

Cá hồi
• 13:18 17/12/2025

Loại cá được ví như 'nhân sâm dưới nước', xuất hiện trong nhiều bài thuốc đông y

Với thịt săn chắc, vị ngọt tự nhiên và giá trị dinh dưỡng cao, cá chạch từ lâu đã vượt qua hình ảnh một loài cá dân dã để được ví như "nhân sâm dưới nước". Không chỉ là một món ăn ngon, nó còn là một vị thuốc quý trong cả y học cổ truyền và hiện đại.

Cá chạch
• 13:18 17/12/2025

Nguồn protein mới: Lối thoát cho “bão giá” thức ăn nuôi tôm

Trong cơ cấu giá thành nuôi tôm, thức ăn luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất, có thể lên đến 60%.

Ruồi lính đen
• 13:18 17/12/2025

Kịch bản xâm nhập mặn mùa khô 2026 và quy trình rửa mặn chủ động

Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đang bước vào giai đoạn chuẩn bị cho mùa khô 2026. Mặc dù dự báo xâm nhập mặn ở mức trung bình, nguy cơ tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản, vẫn hiện hữu. Bà con cần lập kế hoạch sớm, tránh thiệt hại trắng ao và duy trì sinh kế bền vững.

Treo ao
• 13:18 17/12/2025

Quorum sensing là gì? Khi vi khuẩn phối hợp gây bệnh

Liệu vi khuẩn có khả năng “giao tiếp” và phối hợp hành động để hạ gục tôm chỉ sau một đêm? Hãy cùng khám phá cơ chế Quorum Sensing để giải hiện tượng này.

Tôm
• 13:18 17/12/2025
Some text some message..