Hai mặt của loài sinh vật xinh đẹp dưới biển sâu

Tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu về sứa biển dù đây là loài sinh vật có tác động lớn đến môi trường tự nhiên, cuộc sống của con người

sứa biển
Sứa là loại động vật thân mềm, là lớp nhuyễn thể, sống ở môi trường nước, có khả năng di chuyển dưới nước khi co bóp dù và đẩy nước qua miệng. Ảnh minh họa.

Sứa thuộc nhóm động vật không xương sống, ngành Xoang tràng, có kích thước từ dưới 1mm tới gần 2m, là mắt xích quan trọng trong chuỗi và lưới thức ăn trong môi trường biển. Sứa thường sống ở biển và các vùng nước ven bờ và nhạy cảm với sự biến động của môi trường.

Với thân mình trong suốt, mềm mại, cấu trúc đối xứng độc đáo, sứa được xem là một trong những loài sinh vật đẹp nhất trong đại dương. Những năm gần đây, hiện tượng "sứa nở hoa" (jellyfish bloom) ngày càng xuất hiện nhiều nơi trên thế giới. "Sứa nở hoa" gợi liên tưởng về một cảnh tượng đẹp đẽ đầy màu sắc, nhưng trên thực tế lại là một thảm hoạ về mặt tự nhiên.

Theo đó, "sứa nở hoa" là hiện tượng sứa phát triển ồ ạt, kết quả của việc đánh bắt quá mức, gây mất cân bằng hệ sinh thái biển, bên cạnh hệ quả của biến đổi khí hậu và thay đổi điều kiện môi trường. Khi "nở hoa", quần thể sứa sẽ cạnh tranh không gian sống, nguồn thức ăn với các loại thủy sản khác. Chúng tiêu thụ một số lượng lớn cá con, ấu trùng tôm cá. Mỗi cá thể sứa có kích thước 5 cm có thể ăn tới 10 cá trích bột mỗi giờ.

Sứa nở hoa
Hiện tượng sứa nở hoa. Ảnh minh họa

Chúng cũng gây ra các vấn đề nghiêm trọng về môi trường, bao gồm cả đối với con người (đôi khi gây chết người), làm tắc nghẽn thiết bị làm mát và hư hỏng các nhà máy điện, làm rách lưới đánh cá của ngư dân, làm bẩn cá đánh bắt, làm chết cá nuôi.

Bên cạnh đó, độc tố sứa đã được ghi nhận gây nhiều thiệt hại trong ngành du lịch. Tại Tây Ban Nha, chỉ riêng năm 2006 đã có tới 70.000 người bị bỏng hay bị dị ứng do đụng chạm phải sứa khi tắm biển. Năm 2007, Cannes (Pháp) và Monaco là hai thành phố ở Địa Trung Hải đầu tiên phải sử dụng lưới che chắn ở một số bãi biển nhằm bảo vệ người dân đến tắm biển ở đây chống lại sự tấn công của sứa.

Tuy nhiên, một mặt còn lại, sứa vẫn mang tới nhiều lợi ích, có thể là nguồn cung cấp thực phẩm cho con người, khai thác kinh tế. Tại 4 vùng ven biển của Việt Nam, tổng trữ lượng sứa kinh tế ở bốn vùng ven biển Việt Nam ước khoảng hơn một triệu tấn, chủ yếu là sứa trắng mùa vụ từ từ tháng 1 đến tháng 7 hàng năm, sứa đỏ thường từ tháng 2 đến tháng 6, sứa rô thường từ tháng 4 đến tháng 8. Đây đều là những loại sứa có thể khai thác để làm thực phẩm. Ngư dân đi đánh bắt có thể kiếm lợi hàng chục triệu đồng mỗi chuyến đi biển. Giá trị xuất khẩu sứa thô hàng năm lên tới hàng triệu USD tại một số địa phương.

món ăn từ sứa
Sứa biển là món ăn bổ, mát và được người dân sử dụng để chế biến một số món hợp với ngày hè như: gỏi, nộm sứa, lẩu, canh, bún sứa. Ảnh ny.eater

Sứa còn có một số lợi ích khác, như nghiên cứu gần đây cho thấy, sứa đóng một vai trò chủ đạo trong việc chuyển carbon giữa mạng thức ăn tầng mặt và tầng đáy ở các hệ sinh thái ven bờ. Nghiên cứu sinh hóa học cho thấy, thịt sứa chứa chất dinh dưỡng thấp song chứa một số loại vitamin không thay thế và axit nicitinic, giàu khoáng chất như Na, Ca, K, Mg (Hsied và cộng sự, 1996). Chất tạo keo (collagen) chiết xuất từ sứa có thể sử dụng trong nhiều ứng dụng khoa học khác nhau, bao gồm cả việc điều trị bệnh viêm khớp mãn tính, thuốc chữa trị bỏng và làm da nhân tạo...

Dù có tác động lớn với môi trường sinh thái biển cũng như có ảnh hưởng trên khía cạnh đời sống, kinh tế, hiện ở Việt Nam chưa có nhiều dự án nghiên cứu đào sâu về loại sinh vật này. Việc nghiên cứu sứa mới bắt đầu được tiến hành trong khoảng 50 năm trở lại đây, trong đó lần đầu tiên 98 loài sứa biển Việt Nam được công bố vào năm 1966, nhưng những nghiên cứu này cũng chỉ dừng lại ở việc xác định thành phần loài và hình ảnh minh họa hình dạng sứa.

Cho tới nay, ở Việt Nam mới chỉ có 2 đề tài chính thức nghiên cứu về sứa biển được thực hiện. Một là đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nghiên cứu sứa để phát triển nguồn dược liệu và hoạt chất sinh học từ sinh vật biển. Một nghiên cứu khác hoàn thành năm 2011 xác định trữ lượng, mùa vụ và khả năng khai thác của 4 loài Sứa thủy sản, đồng thời xác định được tổng số 128 loài, trong đó có 26 loài sứa dù và 14 loài sứa lược ở vùng biển ven bờ.

sứa biển
Sứa dù (Scyphozoa). Ảnh minh họa

Với nguồn dữ liệu ít ỏi như trên, Viện Tài nguyên và môi trường biển thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã đề xuất hợp tác với đối tác Nhật Bản nghiên cứu đa dạng sinh học của sứa, đánh giá vai trò của chúng ở vùng biển Việt Nam. Dự án trực thuộc Chương trình khoa học và công nghệ Quốc gia, do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức.

Theo nhóm dự án, mục tiêu của dự án sẽ là có được cơ sở dữ liệu về hình thái, phân bố, mã vạch di truyền của một số loại sứa phổ biến như Sứa dù (Scyphozoa), Sứa lược (Ctenophora) ở vùng biển ven bờ Việt Nam, đánh giá được vai trò của chúng trong đời sống kinh tế.

sứa biển
Sứa lược (Ctenophora). Ảnh minh họa

Dự án góp phần mở ra hướng ứng dụng công nghệ sinh học phân tử, đồng vị phóng xạ bền trong nghiên cứu phân loại sinh học, sinh thái học giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu và đánh giá đa dạng sinh học biển Việt Nam nói chung và sứa nói riêng. Ngoài ra dự án góp phần định hướng khai thác, sử dụng các loài sứa có lợi và quản lý, hạn chế tác hại từ các loài sứa có hại trong các khu vực ven biển Việt Nam.

Kết quả của nhiệm vụ sẽ cung cấp một cơ sở dữ liệu sứa biển Việt Nam, đây sẽ là tiền đề cho việc phân loại và kiểm định các sản phẩm từ sứa sau này. Ngoài ra, kết quả cũng góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho công tác quản lý, khai thác bền vững nguồn tài nguyên sinh vật biển.

VnExpress
Đăng ngày 27/12/2021
Văn Phú
Khoa học

Liên kết khép kín chuỗi rong biển

Sáng 25/10/2024, tại Hà Nội, diễn ra lễ ký liên kết khép kín chuỗi rong biển giá trị cao giữa doanh nghiệp thu mua chế biến và doanh nghiệp cung cấp giống với Trung tâm ICAFIS thuộc Hội Thủy sản Việt Nam (đang phối hợp thúc đẩy chương trình hỗ trợ người dân trồng 1.000 ha rong biển).

Rong biển
• 10:07 01/11/2024

Siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng độ mặn thấp

Những năm gần đây, hoạt động nuôi tôm thẻ chân trắng trong các vùng địa lý có độ mặn thấp, nằm sâu trong đất liền đang phát triển nhanh do đặc điểm sinh học của tôm chống chịu thay đổi lớn về độ mặn và mật độ thả giống cao (Prangnell và cộng sự, 2019a).

Tôm thẻ chân trắng
• 10:45 28/10/2024

Điểm sáng từ cho lai cá mú trân châu và cá mú nghệ

Được biết cá mú lại hay còn gọi là cá mú trân châu, cá này là con lai giữa cá mú nghệ đực (Epinephelus lanceolatus) tên tiếng anh giant grouper là và cá mú cọp cái (Epinephelus fuscoguttatus) tên tiếng anh là tiger grouper.

Cá mú
• 10:54 16/10/2024

Biện pháp phòng vệ chống lại vi-rút đốm trắng: Bảo vệ qua trung gian RNAi ở tôm

Vi-rút gây hội chứng đốm trắng (WSSV) đe dọa đáng kể đến ngành nuôi tôm trên toàn thế giới.

Tôm bệnh đốm trắng
• 09:00 10/10/2024

Các giải pháp nuôi tôm thương phẩm ứng dụng theo công nghệ Semi-Biofloc

Công nghệ Semi-Biofloc trong nuôi tôm là một phương pháp hiệu quả, giúp nâng cao năng suất và hiệu quả bền vững cho ngành nuôi trồng thủy sản. Sau đây là một số ưu điểm của công nghệ Semi-Biofloc trong nuôi tôm thương phẩm:

Tôm thẻ
• 12:36 05/11/2024

Điều chỉnh lượng và kích thước thức ăn cho tôm qua từng giai đoạn

Quản lý thức ăn là một yếu tố quan trọng giúp người nuôi tối ưu hóa quá trình nuôi tôm và giảm thiểu lãng phí, từ đó mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ rằng lượng và kích thước thức ăn cần được điều chỉnh qua từng giai đoạn phát triển của tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 12:36 05/11/2024

Sự căng thẳng ở tôm

Căng thẳng ở tôm là một vấn đề quan trọng mà bà con nuôi tôm cần nắm vững để bảo vệ sức khỏe và nâng cao năng suất của đàn tôm. Khi bị căng thẳng, tôm sẽ yếu dần, dễ mắc bệnh và khó phát triển như mong muốn.

Tôm thẻ
• 12:36 05/11/2024

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến năng suất nuôi thủy sản tại vùng ven biển Việt Nam

Biến đổi khí hậu đang ngày càng ảnh hưởng mạnh đến ngành nuôi trồng thủy sản ven biển Việt Nam, gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lớn, hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn và nhiệt độ nước biển tăng cao trong năm 2023-2024. Những tác động này không chỉ làm suy giảm năng suất và sản lượng thủy sản, mà còn đe dọa sinh kế và an ninh kinh tế của người dân ven biển.

Nuôi trồng thủy sản
• 12:36 05/11/2024

Các loài không mong muốn xuất hiện trong ao nuôi ngày mưa

Những sinh vật này bao gồm các loại cá tạp, côn trùng, giáp xác không mong muốn và vi sinh vật có hại. Việc hiểu rõ những loài không mong muốn này cùng với tác hại và biện pháp kiểm soát sẽ giúp bà con nông dân duy trì môi trường nuôi tôm ổn định và hiệu quả.

Sinh vật phù du
• 12:36 05/11/2024
Some text some message..