Chủ hộ tham gia mô hình đã áp dụng đúng quy trình kỹ thuật từ khâu cải tạo ao đến chăm sóc, quản lý môi trường và cách phòng trị bệnh nên sau gần 3 tháng nuôi đạt được kết quả khá khả quan với tỷ lệ sống của ếch đạt 95%; trọng lượng trung bình 250g/con, ước sản lượng ếch 1.900 kg. Với kích cỡ này thì người nuôi có thể xuất bán ếch; với giá bán hiện nay 38.000đ/kg, sau khi trừ đi chi phí lãi trên chục triệu đồng từ tiền bán ếch. Trong thời gian nuôi ếch, cá vẫn phát triển tốt, tỷ lệ sống của cá 90%.
Trong quá trình nuôi ông Nguyễn Đức Quảng – hộ tham gia mô hình cho biết: nuôi ghép ếch trong lồng ao nuôi cá có thể tận dụng được tối đa diện tích mặt nước, tăng thu nhập cho gia đình thay vì trước kia tôi chỉ nuôi các đối tượng cá nước ngọt. Ếch là đối tượng tương đối dễ nuôi, ít dịch bệnh phù hợp với điều kiện địa phương, quá trình nuôi yêu cầu kỹ thuật không quá phức tạp, quá trình chăm sóc quản lý cũng đơn giản, ếch lớn nhanh đồng thời cá có thể sử dụng thức ăn dư thừa và các chất thải của ếch vì vậy mà lượng thức ăn cho cá đã giảm đáng kể.
Tuy nhiên, ếch là đối tượng khá nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ môi trường nên lồng nuôi phải che lưới để tránh mưa trực tiếp và giảm bớt ánh sáng khi có nắng, mặt nước thả rau muống hay lục bình khoảng 2/3 diện tích nuôi góp phần tăng tỷ lệ sống nhất là lúc ếch còn nhỏ. Để tăng sức đề kháng của ếch và phòng bệnh đường ruột nhằm nâng cao tỷ lệ sống trong khi nuôi định kỳ bổ sung men tiêu hóa và Vitamin C vào thức ăn cho ếch ăn. Nhìn chung bước đầu mô hình đã đạt được yêu cầu về kỹ thuật.
Nuôi ghép vừa giúp người nuôi giảm rủi ro, tận dụng tốt nguồn thức ăn, diện tích mặt nước để tăng thu nhập và đa dạng hóa sản phẩm. Thành công của mô hình đã mở ra hướng đi mới trong việc xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế gia đình, giải quyết việc làm. Đặc biệt mô hình có khả năng nhân rộng rất tốt đối với những ao nuôi cá bỏ trống hoặc nuôi không hiệu quả chuyển đổi sang nuôi ếch kết hợp với cá.