Nuôi trồng thủy sản đa dinh dưỡng (IMTA)
IMTA là một hình thức chuyên biệt của thực hành lâu đời của nuôi ghép thủy sản, là việc đồng nuôi các loài khác nhau, thường không liên quan đến mức độ dinh dưỡng. Các nghiên cứu trước đây đã đưa ra giả thuyết rằng sản lượng sinh khối rong biển được cải thiện trong các thí nghiệm nuôi trồng thủy sản đa dinh dưỡng (IMTA) tổng hợp có thể là do mức dinh dưỡng trong nước - nhưng kết quả từ một thử nghiệm được công bố gần đây trên tạp chí Nuôi trồng thủy sản cho thấy rằng năng suất cải thiện là do mức độ ánh sáng cao hơn thay vì nồng độ nitơ.
Nuôi kết hợp tảo bẹ với loài khác
Nghiên cứu tiến hành tại một trang trại tảo bẹ bên cạnh một trang trại vẹm xanh ở Thụy Điển và so sánh với một địa điểm đối chứng, phát hiện ra rằng khả năng lọc sinh học của vẹm làm cho nước trong hơn và dẫn đến cải thiện năng suất sinh khối và nồng độ sắc tố trong rong biển. Việc tích hợp sản xuất tảo bẹ và ngọc trai cũng làm giảm đáng kể khả năng tạo màng sinh học - cho phép tảo bẹ chất lượng tốt hơn phát triển mạnh đến ngày thu hoạch.
Khi tảo bẹ đường tại địa điểm thử nghiệm được trồng ở độ cao từ 1 đến 2 mét dưới mặt nước, các nhà nghiên cứu ghi nhận chiều dài 22% và tăng 38% sinh khối khi so sánh với tảo bẹ được trồng ở địa điểm đối chứng cách xa vẹm. Nhóm nghiên cứu cũng lưu ý rằng tảo bẹ đã giảm độ che phủ biểu sinh và nồng độ sắc tố quang hợp cao hơn so với đối chứng.
Mặc dù thử nghiệm này là một xác nhận bổ sung về khả năng nuôi trồng thủy sản tổng hợp trong việc cung cấp các mục tiêu sản xuất lương thực và bền vững môi trường, nhưng nó cũng chứng minh rằng có những yếu tố khác làm giàu chất dinh dưỡng mà những người thực hiện IMTA cần phải xem xét. Có thể cần nhiều nước giàu chất dinh dưỡng hơn để các dự án đồng nuôi trồng rong biển phát triển mạnh.
Các loại IMTA khác nhau
Phần lớn các hệ thống IMTA kết hợp các loài nuôi trồng thủy sản được cho ăn như cá có vây và giáp xác thương mại với các loài nhiệt đới thấp hơn như rong biển. Trong hệ thống này, rong biển hấp thụ chất thải nitơ và phốt pho từ cá và cô lập các chất dinh dưỡng dư thừa trong nước, dẫn đến suy thoái môi trường. Khi được triển khai một cách chiến lược, IMTA có thể đa dạng hóa sản lượng trang trại và mang lại lợi ích cho hệ sinh thái như chất lượng nước được cải thiện.
Vẹm xanh là loài hai mảnh vỏ cung cấp nhiều protein. Ảnh: globalseafood.org
Một phương pháp không đầu vào và hoàn toàn khai thác để sản xuất thực phẩm và cải thiện môi trường nông trại được quan tâm gần đây. Thay vì sử dụng cá có vây, các nhà sản xuất đang chuyển sang các loài hai mảnh vỏ như vẹm xanh - một nguồn protein. Vẹm xanh là nguồn bổ sung đầy hứa hẹn cho hệ thống IMTA vì chúng cung cấp sự hấp thụ nitơ ròng khi chúng lọc chất dinh dưỡng từ nước. Tuy nhiên, các loài hai mảnh vỏ cũng tạo ra chất thải từ quá trình trao đổi chất của chúng, làm tăng mức nitơ vô cơ hòa tan trong nước. Để hạn chế điều này, mô hình kết hợp tảo bẹ đường và vẹm xanh nhằm tận dụng tối đa lượng chất dinh dưỡng.
Lợi ích của việc nuôi kết hợp
Tích hợp vẹm xanh và tảo bẹ đường có thể mang lại những lợi ích sản xuất khác, đặc biệt là về mặt tạo màng sinh học. Trong nuôi trồng rong biển, bể sinh học dùng để chỉ sự phát triển của các sinh vật trên cây rong biển. Những sinh vật này - được gọi là thực vật biểu sinh - phát triển trên các cánh rong biển và ngăn rong biển lọc nước. Chúng cũng có thể cản trở sự phát triển của rong biển. Vì trai đã hoạt động như một bộ lọc sinh học mạnh, nên có lý do để tin rằng chúng có thể lọc ấu trùng và bào tử của các sinh vật bám bẩn khỏi nước. Cho đến nay, chỉ có một số thử nghiệm đồng canh tác với tảo bẹ và vẹm xanh. Những điều này có xu hướng chứng minh tính khả thi của việc đồng canh tác. Các nhà nghiên cứu đã không tập trung vào sản lượng sinh khối tiềm năng của tảo bẹ trong hệ thống, hoặc liệu trai có thể giữ mức biểu sinh thấp hay không.
Kết quả ban đầu của thử nghiệm cho thấy một lợi ích đáng chú ý trong việc trồng tảo bẹ cùng với vẹm xanh, đặc biệt là ở độ sâu 1 mét. Năng suất và chất lượng rong biển trong hệ thống này và ở độ sâu này cao hơn so với ở khu vực đối chứng độc canh. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng chiều dài tảo bẹ ở địa điểm thử nghiệm dài hơn 22% so với ở địa điểm đối chứng và khối lượng sinh khối trong nhóm đồng nuôi lớn hơn 38%. Trồng tảo bẹ gần vẹm làm giảm độ che phủ của biểu sinh xuống 54 phần trăm và có liên quan đến sự gia tăng đáng kể nồng độ sắc tố quang hợp.
Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng phương pháp đồng nuôi cấy phải được cải tiến. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng máy khai thác ánh sáng chìm và dây rong biển dưới nước để thử nghiệm - đây có thể không phải là cách hiệu quả nhất để sản xuất tảo bẹ. Bất chấp hạn chế tiềm ẩn này, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng thử nghiệm trình bày một nghiên cứu điển hình hấp dẫn cho các mô hình IMTA có thể được khai thác trọn vẹn hơn.