Tăng cường sắc tố cho cá chép Koi

Các loài cá cảnh thường được đánh giá thông qua màu sắc và kiểu dáng khác nhau, và trong đó, màu sắc rực rỡ của cá là yếu tố quyết định sự quý hiếm và giá trị của loài (Yilmiz & Ergun, 2011). Khả năng hiển thị các biến thể màu sắc của động vật là do sự thay đổi trong sự phân tán sắc tố.

Cá Koi
Màu sắc cơ thể sẽ giúp cá koi tăng giá trị hơn

Các tế bào chuyên biệt gọi là tế bào sắc tố nằm ở lớp hạ bì của cá chịu trách nhiệm về màu sắc của chúng (Price và cộng sự, 2008) và phản ứng của chúng với nhiều kích thích. Các loại tế bào sắc tố khác nhau ở cá là Melanophore (màu đen), Xanthophore (Vàng/cam), Erythrophore (Đỏ), Cyanophore (Xanh dương), tế bào ánh kim xanh lam (Xanh lam), tế bào ánh kim bạc (Bạc) và tế bào ánh kim trắng (Trắng) (Wucherer & Michiels, 2012).  

Một số nhà nghiên cứu đã xem xét tác động của carotenoid tổng hợp lên màu da (Meyers, 1994; Buttle và cộng sự, 2001; Bowen và cộng sự, 2002; Booth và cộng sự, 2004; Gouveia và cộng sự, 2003; Kop & Durmaz, 2008; Yasir & Tần, 2010). Các loài nhuyễn thể cũng được sử dụng làm nguồn carotenoid tiềm năng (Wilkie, 1972; Simpson & Haard, 1985). Mặc dù carotenoid tổng hợp và chất màu có sẵn trên thị trường dưới dạng phụ gia tăng màu, việc sử dụng chúng bị hạn chế do chi phí cao và mức độ hấp thu kém cũng như nhận thức của người tiêu dùng về an toàn và tác động môi trường. Người ta đã báo cáo rằng các sắc tố từ Spirulina (Kiriratnikom và cộng sự, 2005), Nấm men đỏ, Xanthophyllomyces dendrorhous (Xu và cộng sự, 2006), Cỏ linh lăng, Medicago sativa (Yanar và cộng sự, 2008), cúc vạn thọ, Tageteseecta (Vanegas-Espinoza) và cộng sự, 2011) ớt bột (Yilmaz và cộng sự, 2013), v.v. là những nguồn cung cấp carotenoid tự nhiên tiềm năng trong cá (Sathyaruban và cộng sự, 2021). Carotenoid cũng có thể được sản xuất bởi nhiều vi sinh vật như nấm sợi, nấm men, vi khuẩn và tảo (Mussagy et al., 2019). Trong số các vi khuẩn này, nấm men được xác định là ứng cử viên thích hợp nhất để sản xuất carotenoid vì tốc độ tăng trưởng nhanh và dễ nuôi cấy. Nấm men sản xuất carotenoid chủ yếu được đại diện bởi các chi Rhodotorula sp., Rhodosporidium sp., Sporobolomyces sp., và Xanthophylomyces sp. (Mannazzu và cộng sự, 2015). Ưu điểm của carotenoid vi sinh vật so với carotenoid chiết xuất từ thực vật về chất lượng và số lượng là chúng không phụ thuộc vào mùa vụ và nguyên liệu thô (Valduga et al., 2014). 

Việc cải thiện màu da bằng cách kết hợp các sắc tố trong chế độ ăn đang trở nên phổ biến trong buôn bán cá cảnh ngày nay. Việc giới thiệu một nguồn chất màu tự nhiên mới như men biển sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào chất màu tổng hợp và những tác dụng phụ của nó. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu của Đại học Nghiên cứu Thủy sản và Đại dương Kerala (KUFOS, Ấn Độ) đã đánh giá khả năng sử dụng nấm men biển Rhodotorula paludigena VA 242 làm chất tăng cường sắc tố trong chế độ ăn của cá chép Koi. 

Cá trong thí nghiệm
Hình 1: Cá được dùng trong thí nghiệm

Hiệu suất tăng trưởng 

Tổng chiều dài và trọng lượng cơ thể ban đầu trung bình của cá thí nghiệm lần lượt là 5,73 cm và 3,83 g trong khi cá ở bể đối chứng lần lượt là 5,6 cm và 3,33 g. Tổng chiều dài và trọng lượng cơ thể cuối cùng của cá được cho ăn thức ăn thử nghiệm lần lượt là 6,87 cm (Hình 2) và 7,23 g (Hình 3) với sự khác biệt về tổng chiều dài 1,14 cm và trọng lượng cơ thể 3,4 g so với giá trị ban đầu. Tổng chiều dài và trọng lượng cơ thể của cá nhóm đối chứng lần lượt là 1,1 cm và 3,27 g. Điều này cho thấy hiệu suất tăng trưởng được cải thiện trong khẩu phần thử nghiệm cho cá ăn với tổng chiều dài tăng 0,04 cm và trọng lượng cơ thể tăng 0,13 g so với cá được cho ăn khẩu phần đối chứng. 

Hình 2
Hình 2. So sánh mức tăng chiều dài

Hình 3
Hình 3. So sánh mức tăng khối lượng

Kết quả về sắc tố 

Phân tích quang phổ về hàm lượng carotenoid trong vảy của cá chép Koi thử nghiệm và đối chứng cho thấy những cá thể được cho ăn bằng chế độ ăn thử nghiệm có chứa nấm men biển tạo carotein R. paludigenaVA242 có sắc tố lớn hơn ở vảy của chúng. Trong số hai thang màu khác nhau (cam và sẫm) được thử nghiệm, chiết xuất carotenoid của vảy cam của cá được cho ăn chế độ ăn thử nghiệm cho thấy giá trị độ hấp thụ tối đa là 0,0909 trong khi của cá đối chứng cho thấy độ hấp thụ là 0,0640 trong phạm vi bước sóng 450–490 nm (Hình 2). 4) cho thấy hàm lượng carotenoid cao hơn ở cá được nuôi bằng chế độ ăn thử nghiệm. Chiết xuất vảy màu sẫm của cá được cho ăn trong thử nghiệm cho thấy giá trị độ hấp thụ tối đa là 0,1 nm ở độ dài sóng 450 nm, trong khi đó của cá được cho ăn đối chứng cho thấy giá trị cực đại là 0,0801 nm ở 460 nm (Hình 5). 

Hình 4
Hình 4. Phổ hấp thụ UV của carotenoid ở thang màu cam của cá được cho ăn thức ăn thực nghiệm và cá được cho ăn thức ăn đối chứng

Hình 5
Hình 5. Phổ hấp thụ tia cực tím của carotenoid ở vảy màu sẫm của cá được cho ăn thức ăn thực nghiệm và cá được cho ăn thức ăn đối chứng

Nồng độ carotenoid trong thang đo của cá được cho ăn chế độ ăn thử nghiệm lần lượt là 7,27 × 10−6 μg/g và 8,00 × 10−6 μg/g ở thang màu cam và màu sẫm (Bảng 1). Nồng độ carotenoid trong thang đo của cá được cho ăn chế độ ăn đối chứng cho thấy giá trị thấp hơn lần lượt là 5,12 × 10−6 μg/g và 6,40 × 10−6 μg/g ở thang màu cam và màu sẫm. Từ những quan sát này, rõ ràng là thức ăn thử nghiệm kết hợp với nấm men biển R. paludigena VA242 đã giúp tăng cường (p < 0,05) màu sắc của vảy trong khẩu phần thử nghiệm cho cá chép Koi ăn.  

Bảng 1
Bảng 1. So sánh hàm lượng sắc tố carotenoid trong vảy cá 

Tốc độ tăng trưởng được cải thiện ở cá chép Koi được nuôi bằng men biển carotene R. paludigena VA242 cung cấp phạm vi cho các nghiên cứu sâu hơn trong lĩnh vực này liên quan đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá. Hơn nữa, ảnh hưởng của nấm men biển tạo carotene lên tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR), phòng ngừa bệnh tật và các hoạt động sinh học khác cũng có thể là chủ đề nghiên cứu. 

Đăng ngày 03/07/2024
L.X.C @lxc
Khoa học

Ảnh hưởng của nhiệt độ lên tỉ lệ giới tính ấu trùng tôm sú

Ở tôm sú, con cái lớn nhanh và có kích thước lớn hơn con đực. Tác động của nhiệt độ có thể làm tăng đáng kể sự biểu hiện của các gen xác định giới tính, giúp cải thiện tỷ lệ giới tính như mong muốn trong đàn.

tôm sú
• 16:28 23/09/2021

Trung Quốc chuyển sang nuôi tôm sú vì giá cao

Người nuôi tôm ở Trung Quốc đang chuyển sang nuôi tôm sú nhiều hơn do giá tốt hơn, theo Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản lớn nhất của Trung Quốc.

tôm sú
• 18:44 17/08/2021

Nuôi tôm thâm canh bổ sung thức ăn tươi sống

Thử nghiệm nuôi tôm sú bằng tảo lục sợi (Chaetomorpha sp.) và ốc (Stenothyra sp.) cho thấy cải thiện tăng trưởng, nâng cao năng suất và tăng cường hấp thu, chuyển hóa thức ăn nhân tạo góp phần giảm chi phí sản xuất cho người nuôi.

ốc cho tôm ăn
• 17:12 28/07/2021

Hiệu quả từ nuôi tôm kết hợp thả cá rô phi xử lý nguồn nước

Hiện nay, nuôi tôm kết hợp cá rô phi xử lý nước ở ấp Vĩnh Điền (xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải) được xem là mô hình cho hiệu quả kinh tế cao.

Cá rô phi
• 10:23 19/07/2021

Vắc-xin uống từ vi tảo

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu đang chịu áp lực bởi các đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng, vắc-xin được xem là giải pháp hiệu quả để nâng cao miễn dịch và giảm sự phụ thuộc vào hóa chất. Một xu hướng nổi bật gần đây là ứng dụng vi tảo làm nền tảng sản xuất vắc-xin, mở ra triển vọng phát triển các loại vắc-xin uống bền vững, hiệu quả và ít tốn kém.

Vi tảo
• 10:50 13/06/2025

Nguyên liệu lên men: Một xu hướng mới trong dinh dưỡng thủy sản

Thức ăn thương mại đóng vai trò then chốt trong sản xuất nuôi trồng thủy sản, do chiếm từ 50% đến 70% tổng chi phí sản xuất.

Thức ăn tôm
• 10:50 03/06/2025

Cá thông minh đến mức nào?

Trong một thời gian dài, khả năng nhận thức của cá thường bị đánh giá thấp, phần lớn do các nghiên cứu chủ yếu được tiến hành trong môi trường phòng thí nghiệm – nơi không phản ánh đầy đủ điều kiện sống tự nhiên. Những hạn chế của việc nuôi nhốt, bao gồm cả stress và thiếu kích thích môi trường, có thể làm sai lệch hành vi và hiệu suất nhận thức của cá, từ đó dẫn đến những hiểu biết phiến diện về năng lực trí tuệ của chúng.

Cá
• 10:53 28/05/2025

Ứng dụng Bacillus subtilis và Bacillus licheniformis trong nuôi trồng thủy sản

Trong bối cảnh ngành thủy sản đang đẩy mạnh phát triển theo hướng bền vững, việc ứng dụng các vi sinh vật có lợi trong nuôi trồng đang ngày càng phổ biến. Hai trong số những loài vi khuẩn được ứng dụng rộng rãi là Bacillus subtilis và Bacillus licheniformis – những chủng có khả năng sinh enzyme mạnh, hỗ trợ tiêu hóa, tăng miễn dịch và cải thiện môi trường nuôi.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:01 27/05/2025

Nguy cơ nhiễm khuẩn từ hải sản tươi sống

Hải sản tươi sống từ lâu đã là lựa chọn yêu thích trong bữa ăn của nhiều gia đình Việt Nam nhờ vào hương vị thơm ngon, giá trị dinh dưỡng cao.

Hải sản sống
• 09:35 18/06/2025

Nuôi cá lăng nha: Lối đi mới đầy triển vọng trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản đang có xu hướng chuyển dịch sang các loài cá đặc sản có giá trị kinh tế cao, thì cá lăng nha – một loài cá da trơn bản địa quý hiếm – đang nổi lên như một đối tượng tiềm năng mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Tại nhiều địa phương như An Giang, Hòa Bình, Sơn La, mô hình nuôi cá lăng nha thương phẩm đang chứng minh được tính khả thi cả về mặt kỹ thuật lẫn thị trường tiêu thụ, mở ra hướng phát triển mới cho người dân ven sông, vùng lòng hồ thủy điện và các trang trại nuôi cá nước ngọt chuyên canh.

Nuôi cá lăng nha
• 09:35 18/06/2025

Ngành cá tra Việt Nam: Mỏ vàng phụ phẩm chờ khai thác triệt để

Ngành công nghiệp cá tra Việt Nam, một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Đồng bằng sông Cửu Long, không chỉ mang lại giá trị từ phi lê xuất khẩu mà còn ẩn chứa một "mỏ vàng" khổng lồ từ phụ phẩm. Việc tận dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu này không chỉ giúp gia tăng giá trị cho con cá tra, giảm ô nhiễm môi trường mà còn mở ra một hướng đi bền vững, theo mô hình kinh tế tuần hoàn.

Cá tra
• 09:35 18/06/2025

Năm 2025 kinh tế biển chuyển mình vượt lên nguồn lợi suy giảm

Số liệu của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, nguồn lợi thủy sản trong 15 năm qua đã giảm 22% và đang để lại nhiều khó khăn thách thức. Tuy nhiên, năm 2025, Bộ NN&MT xác định kinh tế biển sẽ chuyển mình để năm 2030 đóng góp 10% GDP cả nước.

Nuôi trồng thủy sản
• 09:35 18/06/2025

Kiên Giang nâng chỉ tiêu đạt trên 830.000 tấn thủy sản năm 2025

Tỉnh Kiên Giang đang đẩy mạnh nhiều giải pháp để hoàn thành mục tiêu sản lượng thủy sản 2025, ở mức 830.300 tấn, tăng 10.000 tấn so với con số dự kiến hồi đầu năm – bao gồm 420.000 tấn khai thác biển và 410.300 tấn nuôi trồng.

Nuôi trồng biển
• 09:35 18/06/2025
Some text some message..