Tăng cường sức khỏe của cá tra thông qua β-glucan trong thức ăn

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng việc sử dụng β-glucan trong thức ăn có thể tăng cường khả năng kháng bệnh ở các loài nuôi có tầm quan trọng về mặt thương mại, chẳng hạn như cá chép (Cyprinus carpio), cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss), cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar), và cá tráp biển (Sparus aurata) và được sử dụng trong thức ăn thủy sản thương mại.

Cá tra
Mục đích của nghiên cứu là nhằm thiết lập mức β-glucan tối ưu cho cá tra. Ảnh: shutterstock

Phản ứng của cá với β-glucan trong chế độ ăn có thể khác nhau tùy thuộc vào loài nuôi, nhóm tuổi và thời gian sử dụng hợp chất Tùy thuộc vào nguồn β-glucan, cấu trúc phân tử và khả năng liên kết với các thụ thể tế bào ở cá, điều này sẽ mang lại những phản ứng sinh lý khác nhau ở động vật đạt được hiệu quả mong muốn cao nhất. Mới đây, nghiên cứu của Sheeza Bano và cs., (2024) đã đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung β-glucan trong thức ăn của cá tra giúp tăng cường sức khỏe.  

Mục đích của nghiên cứu là nhằm thiết lập mức β-glucan tối ưu cho cá tra. Kết quả của các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng 1 g kg-1 gây ra phản ứng tích cực về tăng trưởng và sức khỏe của các loài thủy sản. Do đó, các mức phân loại sau đây đã được kiểm tra: 0 (G0), 0,5 (G0.5), 1,0 (G1.0) và 1,5 (G1.5) g kg-1 sử dụng β-glucan có nguồn gốc từ nấm men (Food Chem, Hồ Châu, Trung Quốc). Khẩu phần thử nghiệm được chuẩn bị từ công thức khẩu phần cơ bản (30% protein thô) với hàm lượng β-glucan được phân loại. Công thức chế độ ăn cơ bản và thành phần gần đúng của chế độ ăn cơ bản và thành phần axit béo lần lượt được trình bày trong Bảng 1 và 2.


Cá tra (~250 g/con được nuôi trong bể bê tông trong hai tuần trước khi bắt đầu thử nghiệm thức ăn. Sau đó, cá được chuyển và thích nghi vào ao đất. Nhóm 15 con cá (250,37 ± 0,82 g/con) được phân ngẫu nhiên vào 12 giai lưới [ 245 (L) ×180 (W) × 90 (D) cm]. Giai lưới được làm bằng lưới nylon tổng hợp và được thiết kế có hai ngăn lồng vào nhau được buộc vào khung cột tre. Ngăn bên trong có lưới cỡ 1,1 cm để đựng cá. Các viên thức ăn thừa sẽ được chuyển sang ngăn bên ngoài, bao gồm một lưới lưới mịn hơn (1,5 mm). Việc phân bổ từng nguồn cấp dữ liệu thử nghiệm được chỉ định ngẫu nhiên cho mỗi giai để đưa ra thiết kế xử lý ba lần (n = 3).

Việc thay nước được thực hiện hàng ngày trên ao để ngăn ngừa sự tích tụ quá mức các chất dinh dưỡng dư thừa. Quạt nước được sử dụng để duy trì khí trong ao. Các thông số chất lượng nước được đo lúc 08h00 trước khi cho ăn, bao gồm nhiệt độ nước (30 ±0,31°C, độ lệch chuẩn, SD), pH (6,32 ±0,17, SD), oxy hòa tan (5,60 ±0,25 mg L- 1, SD) và tổng chất rắn hòa tan (1320 ±0,11 mg L-1, SD) bằng máy đo đa thông số Hanna HI 9828/4-01 (Chelmsford, Vương quốc Anh). Cá được cho ăn 2 lần/ngày (09:00 và 16:00) với khẩu phần 3% trọng lượng thân. Sau 20 phút cho khẩu phần thức ăn, thức ăn thừa được thu thập từ ngăn bên ngoài của hapas để xác định mức tiêu thụ thức ăn ròng. Cá được cân hai tuần một lần và khẩu phần thức ăn cho mỗi lồng được điều chỉnh để phản ánh sự gia tăng sinh khối. 

Kết quả về hiệu suất tăng trưởng, sử dụng thức ăn và tỷ lệ sống 

Vào cuối thử nghiệm cho ăn, hiệu suất tăng trưởng, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và tỷ lệ sống bị ảnh hưởng đáng kể bởi các khẩu phần ăn (P<0,05). Có một xu hướng là các chỉ số hiệu quả tăng trưởng được nâng cao khi liều lượng β-glucan trong khẩu phần ăn tăng lên. Trọng lượng cuối cùng trung bình, mức tăng trọng và tốc độ tăng trưởng cụ thể cao nhất được quan sát thấy ở cá được cho ăn chế độ ăn 1,5 g kg-1 β-glucan. Trong khi cá được nuôi bằng chế độ ăn kiểm soát có số đo tăng trưởng thấp nhất, ví dụ: tăng trọng (90 g), tốc độ tăng trưởng cụ thể (3,74%) và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (2,11). Cá được cho ăn với mức bổ sung β-glucan là 1,5 g kg-1 có FCR thấp nhất và nhóm đối chứng có giá trị cao nhất, lần lượt là 1,70 và 2,11. Cá được nuôi bằng chế độ ăn bổ sung β-glucan, bất kể mức độ bổ sung, có tốc độ tăng trưởng cao hơn đáng kể và FCR thấp hơn so với cá đối chứng (P<0,022). Mặc dù tỷ lệ sống không bị ảnh hưởng bởi khẩu phần ăn và tỷ lệ sống trung bình là 96,1% (Bảng 3). 


Bảng 3. Hiệu suất tăng trưởng và sử dụng thức ăn của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) được cho ăn với mức β-glucan phân loại trong 12 tuần (n = 3). 

Kết quả về thành phần cơ thịt cá 

Ngoại trừ hàm lượng protein thô (P<0,05), khẩu phần ăn không ảnh hưởng đáng kể đến thành phần cơ thể gần ở cá tra (Bảng 4, P>0,05). Cá được cho ăn chế độ ăn 1,5 g/kg-1 β-glucan có hàm lượng protein thô cao nhất (19,70%), trong khi những cá được cho ăn chế độ ăn đối chứng có giá trị thấp nhất (17,60%). 

Bảng 4
Bảng 4. Thành phần gần đúng của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) được nuôi với hàm lượng β-glucan được phân loại trong 12 tuần (n = 3, % trọng lượng ướt). 

Kết quả về thành phần axit béo 

Chế độ ăn thử nghiệm không ảnh hưởng đáng kể đến thành phần axit béo trong cơ, gan và mô mỡ (Bảng 5–7). Axit béo bão hòa (SFA) cao nhất ở gan, trong khi axit béo không bão hòa đơn (MUFA) và axit béo không bão hòa đa (PUFA) lần lượt chiếm ưu thế ở mỡ và cơ. Tỷ lệ n3/n6 là 0,05, 0,10 và <0,01 ở các mô cơ, gan và mỡ. Axit linoleic (LA; 18:2n-6) là axit béo có nhiều nhất trong cơ và gan. Thành phần axit béo của mô mỡ chủ yếu là axit linoleic và axit oleic (OA; 18:1n-9). Cả axit eicosapentaenoic (EPA; 20:5n-3) và axit docosahexaenoic (DHA; 22:6n-3) đều cao nhất ở gan (lần lượt là 0,90 và 2,90%) và thấp nhất ở mỡ (< 0,05%). Mức EPA và DHA trong cơ lần lượt là 0,30 và 1,30%. PCA về thành phần axit béo cho thấy không có sự phân nhóm riêng biệt giữa các nhóm chế độ ăn uống giữa các mô cơ, gan và mỡ (Hình 1). 

Hình 1
Hình 1: Kết quả phân tích thành phần chính về thành phần axit béo ở cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) sau khi cho ăn khẩu phần có bổ sung β-glucan

Hoạt động của enzyme chống oxy hóa 

Khi kết thúc thử nghiệm thức ăn, hoạt động của enzyme liên quan đến chống oxy hóa trong gan bị ảnh hưởng đáng kể bởi việc bổ sung β-glucan trong chế độ ăn uống (P<0,05; Hình 2). Hoạt tính catalase cao nhất và thấp nhất được quan sát thấy ở cá ăn khẩu phần G1,5 (71,20 U mg-1) và G0 (đối chứng) (54,10 U mg-1), tương ứng. Cá được cho ăn chế độ ăn bổ sung β-glucan có hoạt động CAT cao hơn đáng kể so với cá ăn chế độ ăn đối chứng trong mọi trường hợp. Hoạt tính glutathione peroxidase cao hơn đáng kể ở nhóm cá ăn khẩu phần G1.5 (61,30 U mg-1) so với nhóm ăn ba chế độ ăn thử nghiệm còn lại. Cá được nuôi bằng chế độ ăn đối chứng có hoạt tính GPx thấp hơn (45,00 U mg-1) so với cá được cho ăn chế độ ăn bổ sung β-glucan, trong khi cá được cho ăn G0.5 và G1.0 biểu hiện hoạt động GPx tương tự. Hoạt tính superoxide dismutase thấp hơn đáng kể ở nhóm nuôi cá bằng chế độ ăn đối chứng so với nhóm được cho ăn chế độ ăn bổ sung β-glucan, có hoạt động SOD tương tự. 

Hình 2
Hình 2: Ảnh hưởng của việc bổ sung β-glucan lên enzym chống oxy hóa ở cơ (A, B, C) và gan (D, E, F) của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus).

Hiệu quả chống stress mật độ 

Chế độ ăn thử nghiệm đã ảnh hưởng đáng kể đến cả nồng độ cortisol và glucose huyết thanh ở cả cá trước và sau stress (P<0,001, Bảng 5). Trước tình trạng căng thẳng do đông đúc, nồng độ cortisol và glucose trong huyết thanh thấp nhất được tìm thấy ở cá được nuôi bằng chế độ ăn G1.5, trong khi cá ở nhóm G0 (đối chứng) có giá trị đo được cao nhất. Những khác biệt này là mối quan hệ phụ thuộc liều lượng nghịch đảo, trong đó việc tăng lượng β-glucan đưa vào dẫn đến giảm mức chỉ số căng thẳng. Ảnh hưởng của thời gian đã làm giảm các chỉ số căng thẳng đo được (P<0,001). Sau khi gây ra căng thẳng đông đúc (2 giờ), cá trong nhóm ăn chế độ G1.5 có mức cortisol thấp hơn chênh lệch 17,48% so với cá được nuôi bằng chế độ ăn G0, trong khi mức glucose thấp hơn 21,12%.

Những xu hướng này được lặp lại trong cả phép đo 8 giờ và 24 giờ. Có sự giảm dần mức cortisol và glucose trung bình. Chỉ có nhóm điều trị β-glucan trong chế độ ăn kiêng đã trở lại mức trước căng thẳng sau 8 giờ sau căng thẳng đông người. Ngược lại, nhóm đối chứng không trở lại mức độ căng thẳng trước đó sau 24 giờ đông đúc. ANOVA hai chiều cho thấy tác động tương tác giữa chế độ ăn uống và thời gian ở mức cortisol và glucose, P = 0,022 và P<0,001, tương ứng. 

Bảng 5Bảng 5: Nồng độ Cortisol và glucose ở cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) trước và sau khi bị stress (n = 3).

β-glucan là một thành phần thức ăn có chức năng mạnh và hiệu quả thường được sử dụng trong thức ăn thủy sản như một chất kích thích để tăng phản ứng miễn dịch. Nghiên cứu hiện tại đánh giá liệu β-glucan trong chế độ ăn có thể mang lại lợi ích bổ sung cho cá tra nuôi hay không. Sử dụng mức bổ sung 1,5 g/kg β-glucan trong thức ăn tạo ra phản ứng có lợi cao nhất về hiệu suất tăng trưởng, sử dụng thức ăn, tích tụ protein cơ thể và các chỉ số về chức năng chống oxy hóa. Quan trọng hơn, ưu điểm lớn nhất của việc sử dụng β-glucan trong khẩu phần ăn của cá tra là khả năng giảm tác động của các chỉ số căng thẳng trong chăn nuôi. Tuy nhiên, mức β-glucan được thử nghiệm trong nghiên cứu này không thiết lập được ngưỡng hiệu quả tối đa. Vì vậy, có cơ hội tối ưu hóa hơn nữa ở cá tra. 

Đăng ngày 18/05/2024
L.X.C @lxc
Khoa học

Sinh vật biển tiềm năng trong y học

Ý tưởng hiện đại về việc điều trị bệnh tật của con người bao gồm các sản phẩm tự nhiên có cấu trúc và chức năng đặc biệt có nguồn gốc từ động vật không xương sống biển.

Sinh vật biển
• 11:00 03/03/2025

Các công nghệ chủ chốt thúc đẩy sự thay đổi trong thủy sản

Điểm danh một số công nghệ chủ chốt trong nuôi trồng thủy sản hiện nay

Ao nuôi tôm
• 10:29 03/03/2025

San hô và các hợp chất chuyển hóa giàu hoạt tính sinh học

San hô thuộc lớp Anthozoa trong ngành Coelenterata là động vật không xương sống đáy biển chiếm ưu thế nhất, chủ yếu sống ở các vùng biển nhiệt đới. Có hơn 6100 loài trên toàn thế giới và 496 loài trong số đó được tìm thấy ở Biển Đông.

San hô
• 10:12 28/02/2025

Vai trò của các công nghệ giám sát và quản lý tài nguyên thủy sản

Công nghệ giám sát và quản lý tài nguyên thủy sản đang đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự bền vững và hiệu quả trong ngành thủy sản. Nhờ vào các công nghệ hiện đại, việc giám sát, quản lý và bảo vệ tài nguyên thủy sản trở nên chính xác, hiệu quả và tiết kiệm hơn.

Ao tôm
• 10:16 26/02/2025

EHP phá hủy hệ tiêu hóa của tôm

EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) là một loại vi bào tử trùng thuộc nhóm Microsporidia, gây bệnh phổ biến trên tôm nuôi, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Bệnh EHP không gây chết hàng loạt như hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay bệnh đốm trắng, nhưng lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ tăng trưởng và năng suất của tôm. Do không có thuốc đặc trị, EHP đang trở thành mối đe dọa lớn đối với ngành nuôi tôm trên toàn cầu.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:31 07/03/2025

Phân tích thị trường và thời điểm bán tôm để đạt giá cao nhất 2025

Trong bối cảnh giá tôm biến động mạnh suốt thời gian qua, việc chọn đúng thời điểm bán để đạt giá cao nhất là mối quan tâm hàng đầu của người nuôi và các doanh nghiệp xuất khẩu.

Tôm thẻ
• 10:31 07/03/2025

Cà Mau: Giữ vững vị thế dẫn đầu trong sản xuất và xuất khẩu tôm

Cà Mau, tỉnh cực Nam của Việt Nam, từ lâu đã nổi tiếng là "thủ phủ tôm" của cả nước. Với lợi thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi, diện tích nuôi trồng rộng lớn và sự đầu tư mạnh mẽ vào khoa học - công nghệ, Cà Mau không chỉ duy trì mà còn củng cố vị thế dẫn đầu trong ngành sản xuất và xuất khẩu tôm.

Tôm thẻ
• 10:31 07/03/2025

Giới thiệu các loài cây thủy sinh phủ xanh hồ cá

Hồ cá không chỉ là một không gian giải trí và thư giãn mà còn là một hệ sinh thái thu nhỏ, nơi cây thủy sinh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp oxy, lọc nước và tạo cảnh quan xanh mát. Việc lựa chọn cây thủy sinh phù hợp không chỉ giúp hồ cá trở nên sinh động hơn mà còn có tác động tích cực đến hệ sinh thái bên trong hồ. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết về một số loài cây thủy sinh phổ biến giúp phủ xanh hồ cá, mang lại vẻ đẹp tự nhiên và cân bằng sinh thái.

Hồ cá thủy sinh
• 10:31 07/03/2025

Tôm hùm: Sản lượng xuất khẩu tăng nhưng người nuôi vẫn thua lỗ

Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 1/2025 ghi nhận mức tăng trưởng tích cực, với kim ngạch đạt trên 774 triệu USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái. Đặc biệt, nhờ nhu cầu cao từ Trung Quốc, mặt hàng tôm hùm và cua có sự tăng trưởng mạnh mẽ, giúp tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường này đạt mức cao. Tuy nhiên, nghịch lý đang diễn ra là dù sản lượng xuất khẩu tăng, người nuôi vẫn phải chịu cảnh thua lỗ. Vậy đâu là nguyên nhân?

Tôm hùm
• 10:31 07/03/2025
Some text some message..