Tỷ lệ bổ sung C/N tác động đến hệ thống biofloc nuôi tôm siêu thâm canh

Kết quả nghiên cứu gần đây của nhóm tác giả người Trung Quốc cho thấy hệ vi sinh trong nước và ruột tôm trong hệ thống nuôi biofloc bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ C/N cung cấp vào.

Hệ thống Biofloc
Hệ thống nuôi tôm Biofloc. Ảnh: Nam Miền Trung

Điều này là cơ sở để nghiên cứu sâu hơn cho việc cải thiện nền tảng vi sinh vật để chuyển đổi nitơ và dinh dưỡng tái chế nước của hệ thống biofloc, đồng thời sẽ giúp điều khiển chức năng biofloc trong sản xuất tôm siêu thâm canh.

Trong hệ thống biofloc (BFT) có thể không cần bổ sung carbon hữu cơ vào nước nuôi để vi khuẩn dị dưỡng phát triển và biofloc phát triển nhanh. Mặc khác nếu như gia tăng tỷ lệ C/N đầu vào thông qua việc bổ sung carbon hữu cơ để đẩy nhanh quá trình đồng hóa NH4+-N bởi vi khuẩn dị dưỡng và chuyển đổi nó thành protein vi khuẩn không sinh nitrit NO-2-N và nitrat (NO-3-N).

Tuy nhiên, trong trường hợp này việc bổ sung liên tục carbon hữu cơ có thể tạo ra một lượng lớn carbon dị dưỡng, làm tăng sinh khối biofloc trong hệ thống nuôi, điều này không chỉ làm tăng chi phí đầu vào mà còn làm tăng khó khăn trong quản lý về loại bỏ chất rắn và bổ sung oxy. Quan trọng hơn là, việc tăng tỷ lệ C/N có thể tạo ra sự thay đổi của cộng đồng vi khuẩn của biofloc, có thể có tác động rất đáng kể đến việc kiểm soát chất lượng nước và hiệu suất sản xuất tôm. 

Một thử nghiệm kéo dài 8 tuần được tiến hành để điều tra tác động của ba tỷ lệ C/N đầu vào khác nhau là 8:1, 12:1 và 16:1, đánh giá tác động của chúng đối với cộng đồng vi khuẩn của biofloc nước và đường ruột tôm trong hệ thống bể BFT nuôi tôm thẻ chân trắng. Mỗi nhóm tỷ lệ C/N có ba bể lặp lại được chỉ định ngẫu nhiên (nước nuôi cấy thể tích 30 m3), và mỗi bể được thả tôm giống với mật độ 300 con/m3.

Hệ thống bể được vận hành không thay nước, duy trì độ pH và kiểm soát biofloc. Trong quá trình thử nghiệm, sinh khối vi sinh vật và mật độ vi khuẩn của biofloc nước cho thấy sự thay đổi tương tự xu hướng, không có sự khác biệt đáng kể dưới các biện pháp kiểm soát biofloc tương ứng đối với ba tỷ lệ C/N các nhóm. 

Có những thay đổi đáng kể đã được tìm thấy trong sự đa dạng về thành phần và sự phong phú tương đối của các cộng đồng vi khuẩn trong các giai đoạn của thử nghiệm và chúng cho thấy sự khác biệt trong hệ thống biofloc trong nước và ruột tôm giữa ba nhóm tỷ lệ C/N. Trong khi đó, sự tương đồng cao có thể được tìm thấy trong thành phần của cộng đồng vi khuẩn giữa biofloc nước và ruột tôm. Ngoài ra, nitơ trong nước nuôi cho thấy một số khác biệt trong khi năng suất của tôm cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa ba nhóm tỷ lệ C/N.

Phân tích PCoA cho thấy cấu trúc của cộng đồng vi khuẩn rõ ràng có thể được phân tách theo các giai đoạn nuôi cấy chứ không phải theo tỷ lệ C/N trong cả biofloc nước và ruột tôm. Đối với chi vi khuẩn chính trong biofloc nước, sự phong phú tương đối của Vibrio, NS9 marine group_norank, Cryomorphaceae_uncultured, Marinomonas, OwenweeksiaTenacibaculum giảm đáng kể (p< 0,05), trong khi Tropicibacter, Saprospiraceae_uncultured, Planctomyces, Rhodobacteraceae_uncultured, Pir4 lineage, Ardenticatenia_norank, Microbacterium và Candidatus Alysiosphaera tăng đáng kể (p < 0,05) trong giai đoạn đầu đến giai đoạn giữa và giai đoạn sau trong ba nhóm tỷ lệ C/N.

Sự khác biệt đáng kể đã được tìm thấy với số lượng tương đối nhiều Rhodobacteraceae_uncultured, Candidatus Alysiosphaera and NS9 marine group_norank ở cả giai đoạn giữa và giai đoạn sau trong ba tỷ lệ C/N nhóm.

Đối với chi vi khuẩn chính trong ruột tôm, sự phong phú tương đối của Vibrio, SpongiimonasPseudoalteromonas tăng đáng kể (p< 0,05) trong khi Planctomyces, Gammaproteobacteria Incertae Sedis_unculturedJTB255 marine benthic group_norank giảm đáng kể (p< 0,05) trong giai đoạn đầu đến giai đoạn giữa và giai đoạn sau trong ba giai đoạn Nhóm tỷ lệ C/N.

Sự khác biệt đáng kể đã được tìm thấy trong sự phong phú tương đối của VibrioPlanctomyces ở giai đoạn giữa và Candidatus Alysiosphaera ở giai đoạn sau giữa ba nhóm tỷ lệ C/N.

Ao nuôiTỷ lệ C/N đầu vào có thể ảnh hưởng đến cộng đồng vi khuẩn của cả biofloc nước và ruột tôm trong môi trường của hệ thống BFT nuôi tôm thẻ. ảNH: delosaqua.com

Ngoài ra, số lượng OTU được chia sẻ giữa biofloc nước và ruột tôm tăng đáng kể (p< 0,05) trong giai đoạn đầu đến giai đoạn giữa và giai đoạn sau trong ba C/N nhóm tỷ lệ. OTU dùng chung giữa biofloc nước và ruột tôm được tính toán cao hơn 83% và 89% tổng số OTU trong biofloc nước ở giai đoạn giữa và giai đoạn sau, tương ứng và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p> 0,05) giữa 3 tỷ lệ C/N nhóm.

Ở giai đoạn giữa và cuối của thử nghiệm, lượng Vibrio Unclassified tương đối cao hơn nhiều được phát hiện trong ruột tôm (26,4-60,2%) so với lượng trong biofloc nước (0,2-0,7%), trong khi sự phong phú tương đối của Tropicibacter naphthalenivorans được phát hiện trong cả biofloc nước (7,5-13,2%)

Như vậy, những kết quả này xác nhận rằng tỷ lệ C/N đầu vào có thể ảnh hưởng đến cộng đồng vi khuẩn của cả biofloc nước và ruột tôm trong môi trường của hệ thống BFT nuôi tôm thẻ chân trắng P. vannamei siêu thâm canh.

Đăng ngày 20/03/2023
Hồng Huyền @hong-huyen
Khoa học

Ảnh hưởng của nhiệt độ lên tỉ lệ giới tính ấu trùng tôm sú

Ở tôm sú, con cái lớn nhanh và có kích thước lớn hơn con đực. Tác động của nhiệt độ có thể làm tăng đáng kể sự biểu hiện của các gen xác định giới tính, giúp cải thiện tỷ lệ giới tính như mong muốn trong đàn.

tôm sú
• 16:28 23/09/2021

Trung Quốc chuyển sang nuôi tôm sú vì giá cao

Người nuôi tôm ở Trung Quốc đang chuyển sang nuôi tôm sú nhiều hơn do giá tốt hơn, theo Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản lớn nhất của Trung Quốc.

tôm sú
• 18:44 17/08/2021

Nuôi tôm thâm canh bổ sung thức ăn tươi sống

Thử nghiệm nuôi tôm sú bằng tảo lục sợi (Chaetomorpha sp.) và ốc (Stenothyra sp.) cho thấy cải thiện tăng trưởng, nâng cao năng suất và tăng cường hấp thu, chuyển hóa thức ăn nhân tạo góp phần giảm chi phí sản xuất cho người nuôi.

ốc cho tôm ăn
• 17:12 28/07/2021

Hiệu quả từ nuôi tôm kết hợp thả cá rô phi xử lý nguồn nước

Hiện nay, nuôi tôm kết hợp cá rô phi xử lý nước ở ấp Vĩnh Điền (xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải) được xem là mô hình cho hiệu quả kinh tế cao.

Cá rô phi
• 10:23 19/07/2021

Công nghệ chỉnh sửa gen trong nuôi tôm: Tăng sức đề kháng bệnh mà không cần kháng sinh

Ngành nuôi tôm Việt Nam đang đối mặt với nỗi lo lớn: dịch bệnh như đốm trắng (WSSV) hay hoại tử gan (AHPND) khiến tôm chết hàng loạt, gây thiệt hại nặng nề.

Tôm
• 09:38 24/04/2025

Mối quan hệ thời gian đông máu và sức khỏe tôm nuôi

Sức khoẻ tôm nuôi trong ao ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tác động như thời tiết khí hậu, mùa vụ, chất lượng nguồn nước với các thông số môi trường liên quan, dịch bệnh, chất lượng giống, thức ăn, mật độ nuôi, kỹ thuật chăm sóc quản lý... Đánh giá tôm khoẻ, tôm yếu, thông qua hoạt động bơi lội, tiêu thụ mồi, tăng trưởng, tỷ lệ sống, độ đồng đều size cỡ, cơ thịt, màu sắc vỏ, những vấn đề liên quan đến gan, ruột tôm…Một phương pháp đánh giá nhanh, thông qua thời gian đông máu tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:12 23/04/2025

AI dự đoán chất lượng tôm con: Chọn lô giống chuẩn ngay từ đầu

Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đang mở ra cơ hội lớn cho ngành nuôi tôm, giúp nông dân chọn lô giống chất lượng với độ chính xác cao. Tôm con khỏe mạnh là yếu tố quyết định để vụ tôm đạt năng suất và lợi nhuận tốt.

Tôm giống
• 09:56 23/04/2025

Phát hiện bệnh trên tôm nhờ AI

Phát hiện bệnh sớm và chính xác là rất quan trọng để quản lý sức khỏe tôm và đảm bảo tính bền vững của nghề nuôi. Trong khi xử lý hình ảnh đã được khám phá, các mô hình hiện tại thường gặp khó khăn về độ chính xác, đặc biệt là khi phát hiện nhiều bệnh hoặc xác định các triệu chứng khó phát hiện.

Tôm bệnh
• 10:21 21/04/2025

Hiệu quả của peptide kháng khuẩn (AMPs) trong phòng trị bệnh tôm

Trong ngành nuôi tôm, so với giai đoạn năm 1991, người nuôi từng sử dụng nhiều loại kháng sinh để phòng và trị bệnh.

Vi khuẩn
• 23:29 24/04/2025

Tình hình khuẩn Vibrio ngày càng tăng

Trong những năm gần đây, ngành nuôi tôm tại Việt Nam đang đối mặt với một thách thức lớn: sự gia tăng nhanh chóng của vi khuẩn Vibrio trong các ao nuôi. Đây là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe của tôm và hiệu quả kinh tế của người nuôi.

Tôm bệnh
• 23:29 24/04/2025

Chung tay gìn giữ sông Cầu khỏi biến đổi khí hậu

Sông Cầu – dòng chảy quan trọng ở miền Bắc Việt Nam – đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, hoạt động sản xuất – kinh doanh và sự gia tăng dân số đô thị. Việc bảo vệ dòng sông này là nhiệm vụ cấp thiết nhằm gìn giữ tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững cho cả khu vực.

Sông Cầu
• 23:29 24/04/2025

Công nghệ chỉnh sửa gen trong nuôi tôm: Tăng sức đề kháng bệnh mà không cần kháng sinh

Ngành nuôi tôm Việt Nam đang đối mặt với nỗi lo lớn: dịch bệnh như đốm trắng (WSSV) hay hoại tử gan (AHPND) khiến tôm chết hàng loạt, gây thiệt hại nặng nề.

Tôm
• 23:29 24/04/2025

Mối quan hệ thời gian đông máu và sức khỏe tôm nuôi

Sức khoẻ tôm nuôi trong ao ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tác động như thời tiết khí hậu, mùa vụ, chất lượng nguồn nước với các thông số môi trường liên quan, dịch bệnh, chất lượng giống, thức ăn, mật độ nuôi, kỹ thuật chăm sóc quản lý... Đánh giá tôm khoẻ, tôm yếu, thông qua hoạt động bơi lội, tiêu thụ mồi, tăng trưởng, tỷ lệ sống, độ đồng đều size cỡ, cơ thịt, màu sắc vỏ, những vấn đề liên quan đến gan, ruột tôm…Một phương pháp đánh giá nhanh, thông qua thời gian đông máu tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 23:29 24/04/2025
Some text some message..