Thiệt hại chồng chất sau mỗi cơn bão
Miền Trung mỗi năm phải hứng chịu nhiều đợt bão và áp thấp nhiệt đới, trong đó các vùng nuôi tôm ven biển luôn là khu vực bị tàn phá đầu tiên. Khi bão đổ bộ, gió mạnh và sóng lớn khiến bờ bao bị sạt lở, bạt đáy ao bị xé rách, hệ thống quạt nước, máy sục khí và đường ống cấp – thoát nước hư hỏng nặng. Điện lưới và đường giao thông bị gián đoạn, khiến việc cấp cứu ao tôm gần như bất khả thi. Nước mưa tràn vào ao làm độ mặn và pH thay đổi đột ngột, gây sốc cho đàn tôm; nhiều héc-ta tôm bị cuốn trôi hoặc chết hàng loạt chỉ trong vài giờ. Toàn bộ chi phí đầu tư của vụ nuôi trước – từ bạt lót, con giống đến thức ăn – coi như mất trắng.
Sau bão, người nuôi phải đối mặt với một danh sách dài các khoản chi khắc phục: bơm cát và đắp lại bờ, thay mới hoặc hàn vá bạt, bơm hút bùn, xử lý ô nhiễm nước và mua lại thiết bị điện – cơ khí. Để cải tạo trọn vẹn một ao nuôi quy mô trung bình, số tiền có thể lên tới hàng trăm triệu đồng, vượt xa khoản dự phòng của hầu hết hộ dân. Trong khi đó, giá thức ăn, con giống và nhân công liên tục tăng, khiến chi phí tái sản xuất càng thêm nặng nề.
Ngay cả những hộ đã mua bảo hiểm thủy sản cũng khó bù đắp đủ thiệt hại. Tiền bồi thường thường chỉ trả một phần dựa trên diện tích và giá trị hợp đồng, chưa kể thủ tục xác minh và giải ngân kéo dài nhiều tuần, khiến người nuôi không kịp chuẩn bị cho vụ mới. Không ít hộ đã phải vay ngân hàng hoặc đại lý thức ăn từ các vụ trước, nên sau bão, họ gần như mất khả năng tiếp cận nguồn tín dụng mới. Kết quả là nhiều gia đình rơi vào vòng xoáy nợ chồng nợ, buộc phải bỏ vụ hoặc thu hẹp quy mô, làm giảm đáng kể sản lượng và thu nhập của toàn vùng nuôi.
Mỗi trận bão qua, người nuôi lại oằn lưng gánh chi phí sửa chữa, tái sản xuất. Ảnh: Sưu tầm
Bài toán vốn: Khó khăn trong từng khoản chi
Ngay sau bão, người nuôi tôm phải đối mặt với hàng loạt khoản chi cấp bách. Việc gia cố bờ bao, vá bạt đáy, thay mới hệ thống quạt nước, sục khí và đường ống cấp – thoát nước tiêu tốn hàng chục đến hàng trăm triệu đồng cho mỗi ao. Tiếp đó là chi phí cải tạo môi trường: bơm tháo bùn, xử lý nguồn nước bị nhiễm phèn hoặc mầm bệnh, bổ sung vi sinh và khoáng chất để khởi động lại ao. Chỉ riêng tiền mua lại con giống chất lượng và thức ăn cho vụ mới cũng đã vượt xa khả năng tích lũy của phần lớn hộ gia đình, nhất là khi toàn bộ vốn từ vụ trước đã mất trắng.
Tìm nguồn tài chính cho những chi phí này không hề đơn giản. Vay thương mại từ ngân hàng thường yêu cầu tài sản thế chấp và lịch sử tín dụng tốt, trong khi nhiều hộ đã có các khoản vay cũ chưa tất toán. Một số địa phương có chương trình hỗ trợ tín dụng sau thiên tai, nhưng quy trình xét duyệt và giải ngân kéo dài, đôi khi chậm hơn tiến độ vụ nuôi kế tiếp, khiến cơ hội tái sản xuất bị bỏ lỡ.
Trước áp lực thời gian, nhiều người buộc phải tìm đến hình thức vay nóng hoặc vay từ đại lý thức ăn với lãi suất cao, dễ dẫn đến vòng xoáy nợ. Nếu vụ nuôi tiếp theo gặp rủi ro, khoản nợ này có thể nhanh chóng vượt ngoài khả năng trả, đe dọa cả tài sản thế chấp lẫn kế sinh nhai lâu dài. Bài toán vốn vì thế không chỉ dừng ở việc “có tiền hay không”, mà còn là vấn đề tìm được đúng nguồn, đúng thời điểm và hình thức vay phù hợp để tránh rơi vào tình trạng bế tắc tài chính.
Nguồn tài chính cạn kiệt, trong khi nhu cầu tái đầu tư cấp bách đặt người nuôi tôm vào thế khó. Ảnh: Người nuôi tôm
Hướng đi cho tái đầu tư bền vững
Để thoát khỏi vòng lặp thiệt hại sau bão, nhiều hộ nuôi tôm miền Trung đang tìm hướng đi linh hoạt hơn. Thay vì tiếp tục nuôi mật độ cao dễ rủi ro, họ chuyển sang mô hình nuôi ghép tôm cá hoặc tôm cua để đa dạng nguồn thu và giảm áp lực dịch bệnh. Một số hộ chủ động giảm diện tích thả, chia nhỏ thời vụ nhằm dàn trải rủi ro thiên tai và dễ xoay vòng vốn. Ở quy mô cộng đồng, các hợp tác xã lập quỹ dự phòng thiên tai, trích một phần lợi nhuận của từng vụ để tích lũy cho giai đoạn khôi phục, giúp các thành viên có khoản vốn sẵn sàng mà không phải phụ thuộc hoàn toàn vào ngân hàng. Đồng thời, việc ký hợp đồng bao tiêu với các doanh nghiệp chế biến còn mang lại lợi ích kép: có đầu ra ổn định và được ứng trước một phần vốn cho chi phí tái sản xuất.
Về lâu dài, đầu tư nâng cấp hạ tầng chống bão được xem là giải pháp cốt lõi để giảm thiểu tổn thất sau mỗi mùa mưa bão. Nhiều hộ đã nâng cao và gia cố bờ bao bằng đất đầm hoặc bê tông, sử dụng bạt HDPE dày chống xé và lắp đặt hệ thống thoát lũ chủ động nhằm giảm áp lực khi nước dâng đột ngột. Việc trang bị máy phát điện dự phòng cũng trở thành ưu tiên để duy trì quạt nước và sục khí khi lưới điện bị cắt, bảo vệ đàn tôm trong những giờ khắc nguy hiểm. Song song đó, chính quyền địa phương có thể hỗ trợ bằng cách đơn giản hóa thủ tục vay ưu đãi, đẩy mạnh chương trình bảo hiểm thủy sản và khuyến khích hình thành các quỹ tín dụng cộng đồng. Khi người nuôi, hợp tác xã, doanh nghiệp chế biến, ngân hàng và chính quyền phối hợp chặt chẽ, việc tái đầu tư sau bão không chỉ khả thi mà còn mở đường cho một ngành nuôi tôm bền vững hơn, giảm thiểu rủi ro và giữ vững nguồn thu cho vùng ven biển.
Đa dạng mô hình, lập quỹ dự phòng để ngành tôm chủ động vốn và giảm rủi ro sau bão. Ảnh: Báo tuổi trẻ
Sau mỗi mùa bão, người nuôi tôm miền Trung phải đối mặt với áp lực vốn, hạ tầng và thị trường cùng lúc. Tuy nhiên, nếu chủ động tích lũy quỹ dự phòng, đa dạng mô hình nuôi, nâng cấp hạ tầng và tham gia các liên kết hợp tác xã – doanh nghiệp, họ có thể biến “vết thương sau bão” thành cơ hội tái thiết vững chắc hơn. Sự phối hợp hỗ trợ từ chính quyền, ngân hàng và cộng đồng sẽ giúp các hộ nuôi không chỉ khôi phục sản xuất mà còn xây dựng nền tảng phát triển dài hạn, giảm phụ thuộc vào thời tiết và tiến tới một ngành tôm an toàn, bền vững.