Vi khuẩn Pseudoalteromonas piscicida 1Ub đề kháng bệnh Vibrio parahaemolyticus

Sử dụng men vi sinh là một trong những phương pháp giúp cải thiện chất lượng nước, kiểm soát dịch bệnh hiệu quả. Hơn nữa, đây được coi là chiến lược bổ sung thay thế kháng sinh và hóa chất trong nuôi trồng thủy sản.

Tôm thẻ chân trắng
Bệnh gan tụy là loại bệnh phổ biến ở tôm thẻ chân trắng

Nghiên cứu mới đây tại trường  Đại học Nông nghiệp Bogor ở Indonesia cho thấy tác dụng tích cực của vi khuẩn Pseudoalteromonas piscicida  trong đề kháng bệnh hoại tử gan tụy trên tôm thẻ chân trắng. 

Nghiên cứu nhằm đánh giá việc bổ sung men vi sinh Pseudoalteromonas piscicida 1Ub vào hệ thống biofloc như một chiến lược thân thiện với môi trường để bảo vệ tôm thẻ chân trắng ( Penaeus vannamei ) khỏi nhiễm trùng Vibrio parahaemolyticus. 

Tôm có trọng lượng cơ thể trung bình (0,50 ± 0,09) g được dùng làm thí nghiệm với các phương pháp xử lý bằng biofloc và probiotic (bổ sung 10,6 CFU  /mL P. piscicida trong hệ thống biofloc), các phương pháp xử lý đối chứng (không bổ sung probiotic và biofloc) và kiểm soát âm tính (tôm được nuôi trong nước sạch không có V. parahaemolyticus ). Các mật độ khác nhau: 10 3,10 5 và 10 7 CFU/mL của V. parahaemolyticus đã được thêm vào nuôi tôm trong các nhóm xử lý biofloc, biofloc và probiotic và đối chứng. 

Kết quả cho thấy mật độ V. parahaemolyticus nuôi kết hợp với P. piscicida 1Ub làm giảm mật độ V. parahaemolyticus trong nước nuôi và cơ thể tôm ở nhóm được điều trị bằng men vi sinh so với nhóm đối chứng ( P  < 0,05).  

Tỷ lệ sống sót và phản ứng miễn dịch (tổng số lượng tế bào máu, hoạt động thực bào, hoạt động hô hấp, phenoloxidase và superoxide dismutase) của tôm trong nhóm sử dụng men vi sinh cao hơn so với nhóm đối chứng dương tính ( P  < 0,05). Hơn nữa, việc bổ sung men vi sinh vào hệ thống biofloc có thể bảo vệ gan tụy tôm khỏi bị tổn thương do V. parahaemolyticus gây ra.   

Trong mỗi nhóm điều trị đối chứng dương tính, tổn thương được quan sát thấy ở gan tụy, với tình trạng thoái hóa thủy dịch và tế bào phì đại. Nhóm điều trị bằng biofloc và nhóm điều trị bằng biofloc và probiotic có ít tổn thương mô hơn và gan tụy khỏe mạnh hơn. 


Hình 1 . Mô bệnh học của gan tụy tôm vào ngày thứ 5 sau thử thách

Tôm thẻ chân trắng được nuôi trong các nhóm xử lý bằng biofloc và probiotic và được thử thách với các mật độ khác nhau của V. parahaemolyticus cho thấy tỷ lệ sống cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng dương tương ứng ( P  < 0,05) ( Hình 2 ). Việc xử lý bằng biofloc không cho thấy sự khác biệt đáng kể ở mức 10,3 CFU  /mL V. parahaemolyticus . Tuy nhiên, 10,5 CFU  /mL, V. parahaemolyticus ở nhóm xử lý bằng biofloc và probiotic cho thấy tỷ lệ sống cao hơn nhóm xử lý bằng biofloc ( P  < 0,05). Tỷ lệ sống sót có xu hướng giảm khi mật độ V. parahaemolyticus tăng lên ở mỗi đối chứng dương [(46% ± 5%)–(13% ± 2%)]. Ngược lại, ở nhóm điều trị bằng biofloc và probiotic, không thấy sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống sót khi mật độ V. parahaemolyticus tăng lên [(76% ± 4%)–(84% ± 4%)]. 


Hình 2 . Tỷ lệ sống của tôm nuôi trong hệ thống biofloc với men vi sinh và được thử thách với các mật độ khác nhau của Vibrio parahaemolyticus sau 5 ngày. 

Mật độ V. parahaemolyticus đã giảm đáng kể bởi P. piscicida thông qua nuôi cấy kết hợp với mật độ ban đầu là 10 3 và 10 5  CFU/mL. P. piscicida tạo ra các thành phần kháng khuẩn có thể được phân loại thành các alkaloid, polyketide và peptide, chẳng hạn như axit isovaleric và axit 2-methylbutyric; axit p -hydroxybenzoic, axit trans -cinnamic, axit 6-bromoindolyl-3-acetic, N -hydroxybenzoisoxazolone và 2-deoxyadenosine. P. piscicida có thể đóng vai trò phá hủy và làm giảm protein hoặc chất nền của màng sinh học vi khuẩn (màng kháng sinh), vốn là yếu tố độc lực ( Klein và cộng sự, 2011 ).  

Việc bổ sung men vi sinh P. piscicida 1Ub vào hệ thống biofloc có thể ức chế sự phát triển của V. parahaemolyticus , làm giảm quần thể V. parahaemolyticus trong nước và cơ thể tôm, tăng phản ứng miễn dịch và hoạt động chống oxy hóa, bảo vệ gan tụy tôm khỏi tổn thương mô, và tăng tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng ngay cả ở mật độ thử thách cao nhất (10,7 CFU  /mL). Việc bổ sung P. piscicida 1Ub vào hệ thống biofloc làm tăng đáng kể sức đề kháng của tôm thẻ chân trắng chống lại nhiễm trùng V. parahaemolyticus . 

Kết quả từ nghiên cứu là tiền đề cơ sở góp phần phòng ngừa và ngăn chặn dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe tôm và giảm thiểu sử dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản. 

Đăng ngày 01/04/2024
Minh Minh @minh-minh
Khoa học

Bản chất chu trình chuyển hóa vật chất trong ao nuôi tôm

Chu trình chuyển hóa vật chất trong ao nuôi tôm là một quá trình biến đổi bảo toàn các nguyên tố trong chuỗi chuyển hóa từ nguồn chất hữu cơ đầu vào dưới tác động nhiều yếu tố lý – hóa – sinh trong ao tôm.

Chu trình chuyển hóa
• 14:00 15/11/2024

Liên kết khép kín chuỗi rong biển

Sáng 25/10/2024, tại Hà Nội, diễn ra lễ ký liên kết khép kín chuỗi rong biển giá trị cao giữa doanh nghiệp thu mua chế biến và doanh nghiệp cung cấp giống với Trung tâm ICAFIS thuộc Hội Thủy sản Việt Nam (đang phối hợp thúc đẩy chương trình hỗ trợ người dân trồng 1.000 ha rong biển).

Rong biển
• 10:07 01/11/2024

Siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng độ mặn thấp

Những năm gần đây, hoạt động nuôi tôm thẻ chân trắng trong các vùng địa lý có độ mặn thấp, nằm sâu trong đất liền đang phát triển nhanh do đặc điểm sinh học của tôm chống chịu thay đổi lớn về độ mặn và mật độ thả giống cao (Prangnell và cộng sự, 2019a).

Tôm thẻ chân trắng
• 10:45 28/10/2024

Điểm sáng từ cho lai cá mú trân châu và cá mú nghệ

Được biết cá mú lại hay còn gọi là cá mú trân châu, cá này là con lai giữa cá mú nghệ đực (Epinephelus lanceolatus) tên tiếng anh giant grouper là và cá mú cọp cái (Epinephelus fuscoguttatus) tên tiếng anh là tiger grouper.

Cá mú
• 10:54 16/10/2024

Tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng các chế phẩm sinh học

Một trong những giải pháp bền vững, an toàn và hiệu quả là sử dụng các chế phẩm sinh học. Chế phẩm sinh học không chỉ giúp cải thiện sức đề kháng cho tôm mà còn có lợi cho môi trường ao nuôi, giảm nhu cầu sử dụng kháng sinh và các hóa chất độc hại.

Tôm thẻ
• 20:20 22/11/2024

Phân biệt bệnh đốm trắng trên tôm do vi khuẩn và virus

Bệnh đốm trắng trên tôm là một trong những bệnh nguy hiểm và phổ biến nhất đối với ngành nuôi tôm, gây thiệt hại lớn về kinh tế và sản lượng. Đây là bệnh có thể do nhiều tác nhân khác nhau gây ra, trong đó nổi bật là các loại vi khuẩn và virus. Dù cả hai loại tác nhân này đều gây ra các triệu chứng tương tự nhau, nhưng nguyên nhân, cách thức lây lan, cũng như phương pháp điều trị và phòng ngừa lại hoàn toàn khác biệt

Tôm thẻ chân trắng
• 20:20 22/11/2024

Hướng đi mới để tối ưu hóa sức khỏe và năng suất nuôi tôm

Nuôi tôm là một ngành sản xuất thủy sản có giá trị kinh tế lớn, đặc biệt ở các quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam.

Ao tôm
• 20:20 22/11/2024

Những điểm mạnh từ sự phát triển ngành thủy sản Australia mà Việt Nam có thể học hỏi

Ngành thủy sản Australia không chỉ nổi tiếng với những sản phẩm chất lượng cao mà còn được xem là hình mẫu về phát triển bền vững.

Thủy sản
• 20:20 22/11/2024

Thần tình yêu đại dương - Cá thần tiên rạn san hô

Cá thần tiên rạn san hô Tosanoides Aphrodite là một phát hiện đầy bất ngờ trong thế giới sinh vật biển. Được các nhà nghiên cứu tại Viện Khoa học California (Mỹ) công bố, loài cá này không chỉ gây ấn tượng bởi vẻ đẹp lộng lẫy mà còn khiến cộng đồng khoa học ngạc nhiên khi chúng chưa từng được ghi nhận trước đây. Cùng tìm hiểu về loài cá được mệnh danh là "thần tình yêu đại dương" này!

Tosanoides Aphrodite
• 20:20 22/11/2024
Some text some message..