Thế nhưng, thời gian qua, ngành cá tra xuất khẩu khu vực ĐBSCL đã có những biến động bất thường, có lúc gần như vào ngõ cụt, đòi hỏi các ngành, các cấp phải tổ chức lại ngành hàng, với mục tiêu đưa con cá tra thật sự trở lại thời hoàng kim vốn có.
Cũng như nhiều sản phẩm nông sản khác, mặt hàng cá tra xuất khẩu thời gian qua chủ yếu phát triển theo hướng tự phát. Sự không đồng bộ trong quy hoạch đã dẫn đến sự tăng trưởng ồ ạt từ vùng nuôi, người nuôi đến doanh nghiệp mà không có một tầm nhìn thị trường, khiến con cá tra xuất khẩu rơi vào cảnh thăng trầm.
Nông dân quay lưng
Từ cuối những năm 1990, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã bắt đầu phát triển nghề nuôi cá tra, ba sa (đều thuộc bộ cá da trơn, họ Pangasiidae) tại khu vực đầu nguồn sông Hậu, sông Tiền tại hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Do thổ nhưỡng thuận lợi, lúc bấy giờ con cá ba sa nuôi bè có chất lượng thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng. Tại khu vực ngã ba sông Châu Đốc đã hình thành làng bè, lúc đỉnh điểm đến hơn 3.000 chiếc.
Trở lại làng bè nuôi cá tại đây, chúng tôi không thể buồn hơn khi biết rằng rất nhiều đại gia nuôi cá ngày nào giờ đã tán gia, bại sản. Trên bè của anh Út Hồng, một trong những chủ bè đang thả nuôi cá lóc bông trên sông Hậu, thuộc xã Đa Phước, huyện An Phú, anh nói: “Trước đây, đại gia đình tôi cũng nuôi đến chục bè cá ba sa. Sau khi phong trào nuôi hầm cá tra phát triển, chúng tôi mua đất, đào ao được hơn mười hầm với tổng diện tích gần hai chục ha. Được mấy năm đầu làm trúng, sau đó người ta bắt đầu nuôi nhiều, các công ty thu mua thì nợ tiền liên tục. Bán vụ này xoay vòng vụ sau đến nửa vụ mới có được tiền trả. Lãi ngân hàng cộng với vốn nhà cứ đắp thêm liên tục, cho nên tôi lại phải trở xuống bè nuôi vài tấn cá chợ (cá bán tại chợ địa phương) để kiếm sống. Nghề nuôi cá tra, ba sa xuất khẩu giờ gần như trắng dân nuôi”. Thực tế của gia đình anh Út Hồng cũng là điều chúng tôi tận mắt chứng kiến tại khu vực nuôi cá tra ven sông Hậu của huyện cù lao Phú Tân (An Giang).
Tại các xã Bình Thạnh Đông, Hiệp Xương, Tân Hòa (huyện Phú Tân, tỉnh An Giang), giờ đây chỉ còn lác đác vài hộ nuôi cá tra, còn lại phần lớn là treo ao hoặc bán đất cho các doanh nghiệp hình thành vùng nguyên liệu. Ông Trần Văn Siêng, ngụ xã Hiệp Xương cho biết: “Hiện, ở xóm này mười nhà nuôi thì giờ còn chưa được ba nhà thả cá. Giá cá trồi sụt, với lại công ty thu mua kìm giá. Bán được cá đã khó, khó hơn là đi lấy tiền. Nhà tôi đã treo ao cá tra mấy năm rồi. Năm nay thả lại vài tấn cá tra bán cá chợ đắp đổi qua ngày thôi”. Xuôi về phía hạ nguồn, tại khu vực bãi bồi Cà Mau thuộc xã Long Giang, huyện Chợ Mới (An Giang), tình hình nuôi cá tra hầm cặp sông cũng chẳng mấy khả quan, hầu hết các hầm chỉ còn nuôi cầm chừng. Còn theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, toàn tỉnh hiện còn 954 ha diện tích mặt nước nuôi cá tra xuất khẩu, sản lượng cũng chỉ vỏn vẹn 367 nghìn tấn.
Tại huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp), một trong những “thủ phủ” của nghề ương nuôi cá tra giống, cung cấp chính cho khu vực, tình trạng ảm đạm cũng là không khí chung. “Người nuôi cá treo ao, bỏ hầm, trốn nợ tùm lum thì tụi tôi sản xuất giống nhiều bán cho ai. Thời gian qua, nghe đài, báo nói giá cá tra giống tăng chỗ này, chỗ kia, rồi khan hiếm, nhưng thực tế ở đây đâu phải vậy. Chúng tôi gần chục năm rồi chỉ sản xuất giống cầm chừng, bạn hàng cũng là mấy anh em thân quen trước giờ chứ có đâu người mới nuôi. Con cá tra giờ gần như bão hòa với bà con nông dân. Còn doanh nghiệp, vùng nuôi của họ, họ ký hợp đồng với trung tâm giống này kia, người ương nuôi nhỏ lẻ sao vào nổi”, anh Mai Văn Tới, ngụ xã Thường Thới Tiền tâm sự. Theo Chi cục Thủy sản tỉnh Đồng Tháp, hiện tỉnh Đồng Tháp có 1.226 cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cá tra, trong đó 76 cơ sở sản xuất và 1.150 cơ sở ương nuôi. Trong năm 2016, toàn tỉnh sản xuất được 12,71 tỷ con, thấp hơn cùng kỳ năm 2015 đến 4,14 tỷ con. Cá tra giống là 0,96 tỷ con, thấp hơn năm 2015 là 0,65 tỷ con. Nguyên nhân chính vẫn do giá cá tra xuống thấp, kéo dài cho nên nhiều cơ sở tạm ngưng sản xuất hay chỉ sản xuất cầm chừng.
Doanh nghiệp điêu đứng
Sự phát triển nuôi ồ ạt của các địa phương, bà con nông dân vùng ĐBSCL cũng kéo theo sự ra đời của hàng loạt doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu mặt hàng cá tra, ba sa. Từ An Giang đến Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ, Bến Tre, Hậu Giang…, những doanh nghiệp thu mua chế biến cá tra lần lượt đi vào hoạt động. Đỉnh điểm phát triển là những năm 2000 đến 2005. Các doanh nghiệp vừa đẩy mạnh thị trường, vừa cạnh tranh nhau trong việc thu mua, chế biến. Vậy nhưng, thực tế thì doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng, có thực lực thật sự và tâm huyết phát triển con cá tra, ba sa thì ít mà làm ăn kiểu chộp giật thì nhiều. Đơn cử cho tình trạng đó là những doanh nghiệp tham gia các hội chợ cá tra xuất khẩu đều đưa ra những mức giá bán thấp kỷ lục, chỉ vài USD/kg. Chính việc chào giá quá thấp đã dẫn đến các doanh nghiệp bắt đầu làm ăn gian dối như tăng tỷ lệ mạ băng khiến phi-lê cá nặng hơn; chèn ép giá thu mua của nông dân dưới giá thành sản xuất; găm tiền thu mua, tận dụng các chính sách hỗ trợ lãi suất ngân hàng cho ngành hàng cá tra để chiếm dụng vốn… Chính cung cách làm ăn gian dối đã khiến nhiều lô hàng xuất khẩu bị các nước kiểm soát chất lượng trả về, áp đặt các tiêu chuẩn khắt khe hơn trong chất lượng cá phi-lê nhập khẩu, đưa ra hàng loạt quy trình canh tác mới theo từng quốc gia, khu vực… Các doanh nghiệp yếu kém, không có thực lực về chuyên môn, tài chính, quản trị, định hướng chiến lược, làm ăn chộp giật trong ngành hàng cá tra cũng từ đó bắt đầu phá sản theo dây chuyền.
Đỉnh điểm của chuỗi phá sản chính là năm 2012, với gần 30% số doanh nghiệp chế biến thủy sản liên tục phá sản. Tại tỉnh An Giang, nơi có đến 21 nhà máy chế biến cá tra, thuộc loại lớn ở ĐBSCL cũng rơi vào cảnh “thoi thóp”. Nhiều nhà máy đã phải sa thải công nhân hàng loạt, một số nhà máy giảm công suất, thậm chí ngưng hoạt động do làm ăn không hiệu quả. Còn tại tỉnh Đồng Tháp, theo đại diện UBND tỉnh này, tính đến thời điểm nêu trên cũng có tới 160 doanh nghiệp “đóng cửa”, trong đó có tới 62 doanh nghiệp chính thức giải thể. Rất nhiều doanh nghiệp dù vẫn duy trì hoạt động, nhưng công suất chỉ còn 30%, thậm chí còn 10%. Tình trạng tương tự cũng diễn ra đối với nhiều nhà máy chế biến tôm và cá xuất khẩu ở các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau…
Không chỉ các doanh nghiệp nhỏ, một số chủ doanh nghiệp lớn ở An Giang, TP Cần Thơ… cũng khốn đốn, với những khoản nợ lớn. Lý giải cho vấn đề nêu trên, theo một nguyên lãnh đạo tỉnh và ngành nông nghiệp tỉnh An Giang chỉ ra: Thứ nhất là các doanh nghiệp cá tra hiện gần như đã không còn tài sản thế chấp và hoạt động theo kiểu “mượn đầu heo nấu cháo” mua thiếu, bán hàng và trả nợ. Chính điều đó dẫn đến nếu ách ở một, hai đơn hàng chắc chắn sẽ phá sản. Thứ hai, phần lớn các doanh nghiệp đang gánh nhiều khoản nợ ngân hàng lớn mà vốn đầu tư thu hút vào không còn. Khi việc xoay vòng vốn làm ăn bị ách hoặc đơn vị đối tác trả lại hàng là nguy cơ vỡ nợ xảy ra. Bên cạnh đó, việc các doanh nghiệp ngành cá tra phần lớn chỉ thuần xuất khẩu cá phi-lê thô sang thị trường các nước, chính sách về định hướng thị trường kém, không đa dạng sản phẩm giá trị gia tăng, mở rộng đa dạng hóa thị trường, xây dựng thương hiệu riêng cũng khiến cho con cá tra Việt Nam xuất khẩu cứ trồi sụt thất thường.
Có bốn tỉnh: Sóc Trăng, Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp đã ban hành quy hoạch về vùng nuôi cá tra. An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Cần Thơ và Trà Vinh đã hoàn thiện công tác rà soát và trình UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch vùng nuôi. 9 trong số 10 tỉnh khu vực ĐBSCL có nuôi cá tra cấp mã nhận diện ao nuôi thuộc vùng nuôi với 4.785 ao cá tra thương phẩm,; trong đó 47,38% thuộc về hộ cá thể, 51,95% thuộc về doanh nghiệp, còn lại thuộc các hợp tác xã. Tổng diện tích cá tra toàn vùng đạt 4.552 ha, sản lượng đạt 1,047 triệu tấn. (Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
(còn nữa)