Bổ sung CNP đã kích thích sự phát triển của V.parahaemolyticus, vi khuẩn LAB đã hạn chế bệnh AHPND trên tôm thẻ

Bổ sung CNP đã kích thích sự phát triển của V.parahaemolyticus , vi khuẩn LAB đã hạn chế bệnh AHPND trên tôm thẻ.

Bệnh gan tụy trên tôm thẻ chân trắng do vi khuẩn V.parahaemolyticus gây ra. Ảnh: Tepbac

Trong quá trình nuôi, nông dân Việt Nam thường sử dụng một số sản phẩm có chứa trehalose, axit glutamic, muối photphat (cung cấp cacbon (C), nitơ (N), photpho ( P) và một số axit amin khác) làm phân bón thúc đẩy sự phát triển của thực vật phù du và vi sinh vật có lợi. Tuy nhiên, AHPND thường xảy ra sau 14 ngày sử dụng các sản phẩm có chứa trehalose, axit glutamic và muối photphat. Một nghiên cứu cho thấy, việc bổ sung trehalose, axit glutamic, KH2PO4 và K2HPO4 vào môi trường nuôi đã thúc đẩy sự phát triển của V.parahaemolyticus. Do đó, có thể việc bổ sung các muối trehalose, glutamic và phosphate vào nước đã kích thích sự phát triển của vi khuẩn V.parahaemolyticus.

Thí nghiệm này được tiến hành để kiểm tra liệu việc bổ sung cacbon, nitơ và phốt pho (CNP) vào môi trường nước có kích thích sự phát triển của vi khuẩn V.parahaemolyticus hay không và ba chủng LAB (Lactobacillus plantarum, Lactobacillus fermentum và Pediococcus pentosaceus) được bổ sung vào thức ăn có thể cải thiện tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống, thành phần và số lượng tế bào máu, đồng thời ngăn ngừa AHPND ở tôm thẻ hay không?

1. Ảnh hưởng của chế độ ăn chứa LAB đối với sự tăng trưởng của tôm thẻ 

Thí nghiệm bao gồm bốn nghiệm thức: đối chứng, nghiệm thức (NT) LAB1, LAB2 và LAB3; tôm được bổ sung tương ứng L.plantarum, L.fermentum và P.pentosaceus với mật độ là 108 (CFU/g).  

Kết quả cho thấy, chế độ ăn có chứa vi khuẩn LAB với liều 108 CFU/g tốc độ tăng trưởng của tôm đã được cải thiện so với chế độ ăn thông thường. Vào ngày thứ 28, NT LAB1 tôm có trọng lượng trung bình cao nhất (12,7 ± 0,29g), tiếp theo là NT LAB3 (12,3 ± 0,31) so với nhóm đối chứng (11,27 ± 0,39 g). Tương tự, chiều dài trung bình của tôm cũng cao nhất ở NT LAB1 (11,9 ± 0,29 mm), tiếp theo là LAB3 (11,7 ± 0,39 mm), sau 28 ngày. PWG (phần trăm tăng trọng) của tôm ở các NT LAB1, LAB2 và LAB3 đã tăng 83,4%, 64,2% và 73%. PLG (phần trăm chiều dài tăng) của tôm đã tăng 26%, 17% và 20,84% so với tôm ở nghiệm thức đối chứng. Đặc biệt, chế độ ăn có L.plantarum (LAB1) dẫn đến WG, LG, DWG và DLG tốt nhất sau 28 ngày thử nghiệm.

Vì vậy, các sản phẩm từ LAB, đặc biệt là L. plantarum, bao gồm vi khuẩn sống, vi khuẩn chết, chiết xuất không tế bào đều có tác dụng cải thiện tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và FCR của tôm. Hàm lượng chế phẩm sinh học trong chế độ ăn đã tăng cường sự thèm ăn hoặc kích thích khả năng tiêu hóa của sinh vật. Ngoài ra, nó đã cho thấy sự tham gia của probiotics trong việc cải thiện sự cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột cũng như trong việc sản xuất các enzym ngoại bào, do đó tăng cường sử dụng thức ăn và tăng trưởng của các loài nuôi.

Cùng với tác dụng tích cực trong việc kích thích tăng trưởng, LAB cũng có tác dụng trong việc kích thích hệ thống miễn dịch không đặc hiệu của tôm. Với sự hiện diện của vi khuẩn LAB, số lượng tế bào máu của tôm đã tăng lên. THC (tổng tế bào máu), GC (tế bào hạt), HC (tế bào không hạt) của tôm liên tục tăng và đạt lần lượt là 190,3; 21,8 và 168,6×105 tế bào/mL ở nghiệm thức LAB1 sau 30 ngày thí nghiệm. Trong khi đó, THC, GC và HC của tôm ở nghiệm thức đối chứng là 166,5; 17,7 và 148,9×105 tế bào/mL sau 30 ngày thử nghiệm. Có thể thấy rằng LAB có khả năng tăng cường khả năng miễn dịch bẩm sinh của tôm thẻ, đặc biệt là L.plantarum. Do đó, tổng số tế bào máu, cũng như tế bào không hạt và tế bào hạt tăng lên sẽ góp phần cải thiện một số phản ứng miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể ở tôm chống lại vi khuẩn gây bệnh.

2. Ảnh hưởng LAB và CNP khi bổ sung cho tôm thẻ.

Thí nghiệm được tiến hành để xác định ảnh hưởng của chế độ ăn có LAB và CNP đến tỷ lệ sống và số lượng tế bào máu của tôm thẻ trong điều kiện nhiễm vi khuẩn V.parahaemolyticus. CNP được cung cấp vào nước với tần suất bảy ngày một lần trong thời gian 14 ngày. 

AHPND ở tôm thường xuất hiện rất sớm trong vụ nuôi, 10-35 ngày sau khi thả nuôi, trong thời kỳ này hàm lượng dinh dưỡng trong nước thường rất thấp. Trên thực tế, nông dân thường bón một số loại phân bón và chế phẩm sinh học có chứa cacbon, nitơ và phốt pho như trehalose, nitơ vô cơ, axit amin và phốt phát vô cơ vào đầu vụ. Đường trehalose được tổng hợp từ nấm men Saccharomyces cerevisiae và chúng được sử dụng làm chất độn trong phân bón để hỗ trợ thực vật phù du hoặc chế phẩm sinh học. Một nghiên cứu cho thấy V.parahaemolyticus chủng 12 có thể phát triển trên môi trường chứa trehalose, L-glutamic, KH2PO4 và K2HPO4. Trong nghiên cứu này tỷ lệ sống của tôm ở các nghiệm thức bổ sung CNP thấp hơn so với các nghiệm thức không cung cấp CNP; đặc biệt là tỷ lệ sống của tôm giữa hai nghiệm thức nhiễm V. parahaemolyticus (PC) và PC + CNP. Tỷ lệ sống của tôm ở nghiệm thức PC + CNP giảm khoảng 11% so với tôm ở nghiệm thức PC. Điều này chỉ ra rằng việc cung cấp CNP đã làm tăng mật độ V.parahaemolyticus, do đó tỷ lệ sống ở các nghiệm thức chứa CNP có tác động gián tiếp đến tôm thẻ. 

Cacbon, nitơ và photpho là những nguyên tố dinh dưỡng quan trọng của cơ thể: là thành phần cấu tạo nên tế bào chất, axit amin, axit nucleic, coenzyme nucleotide, phospholipid, lipopolyshacrarides và axit teichoic, đặc biệt là vi khuẩn dị dưỡng. Việc cung cấp CNP sẽ kích thích sự phát triển của vi khuẩn dị dưỡng và các vi sinh vật khác trong nước ao/bể, bao gồm cả Vibrio sp. Trong nghiên cứu này, việc bổ sung C, N và P (15:1:0,1) vào môi trường nước đã cung cấp chất dinh dưỡng cho V. parahaemolyticus phát triển nhanh chóng, do đó V. parahaemolyticus tăng trưởng gấp ba lần ở các nghiệm thức bổ sung CNP so với các nghiệm thức không có CNP và gây ra những ảnh hưởng lớn hơn đến tôm nuôi.


Chế độ ăn chứa LAB, đặc biệt là chủng L. plantarum, đã cải thiện đáng kể phản ứng miễn dịch ở tôm thẻ. Việc cung cấp trehalose, axit glutamic, KH2PO4 và K2HPO4 với tỷ lệ C: N: P là 15: 1: 0,1 trong thí nghiệm đã làm tăng tỷ lệ chết của tôm và khả năng bùng phát AHPND ở tôm thẻ. Tuy nhiên, việc bổ sung L.plantarum vào thức ăn đã làm giảm đáng kể tỷ lệ chết, cũng như tỷ lệ nhiễm AHPND khi có CNP. Do đó, L.plantarum có thể là một ứng cử viên để giảm AHPND trong nuôi tôm thâm canh. 
Đăng ngày 25/10/2021
Dịch bệnh

Ghẹ vuông chắc thịt không thua ghẹ biển!

Nếu có dịp về Năm Căn, Ngọc Hiển, Ðầm Dơi, ngoài tôm, cua, cá, sò…. thì đừng quên thưởng thức đặc sản ghẹ vuông. Ghẹ vuông chắc thịt, ngon nên được nhiều người dân địa phương, du khách cũng như thị trường tiêu thụ ưa chuộng.

Ghẹ vuông
• 11:58 07/06/2021

Ảnh đẹp thủy sản: Món ăn mang đậm nét đồng quê Việt

Ảnh đẹp thủy sản hôm nay lại mang chúng ta đến gần hơn với những món ăn gắn liền của tuổi thơ qua các nhìn ảnh vô cùng đẹp đẽ, những món ăn mà đã gắn liền với biết bao thế hệ.

Cua đồng.
• 19:49 28/05/2021

Ảnh đẹp: Loài hoa của miền sông nước

Miền Tây không chỉ có sông nước mênh mông mà cảnh sắc lại hữu tình. Kết hợp từ những loài hoa tím hồng rực rỡ hòa quyện tạo nên màu sắc của đồng bằng. Đi đâu chúng ta cũng có thể bắt gặp dễ dàng các loài hoa ấy.

Hoa sen.
• 12:13 24/05/2021

Nhật ký về quê

Quê hương là chùm khế ngọt, dù bạn có đi xa bao lâu thì quê hương cũng luôn mở vòng tay chào đón bạn quay trở về, nếu có một ngày bản thân cảm thấy mệt mỏi ở chốn sài gòn nhộn nhịp thì hãy tạm gác mọi chuyện về quê một chuyến nhé!

Tôm càng xanh.
• 13:44 20/05/2021

Bệnh hoại tử thần kinh (VNN) trên cá chẽm

Cá chẽm là một trong những đối tượng nuôi thương phẩm có giá trị cao và được ưa chuộng tại nhiều quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, một trong những thách thức nghiêm trọng đối với người nuôi cá chẽm hiện nay là bệnh hoại tử thần kinh do virus – còn gọi là Viral Nervous Necrosis (VNN) hoặc bệnh Betanodavirus. Đây là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, đặc biệt ở giai đoạn cá giống và cá con, có thể gây thiệt hại nặng nề lên tới 100% nếu không phát hiện và xử lý kịp thời.

Bệnh VNN trên cá chẽm
• 15:19 07/07/2025

Lỏng ruột trên tôm và những điều cần lưu ý

Trong nuôi trồng thủy sản, hiện tượng tôm bị lỏng ruột là một rối loạn tiêu hóa nghiêm trọng, đặc trưng bởi tình trạng thành ruột mềm, dễ đứt gãy, phân tôm không kết dính. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ nhiễm khuẩn (Vibrio spp.), độc tố thức ăn hoặc stress môi trường, dẫn đến suy giảm chức năng tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng. Bệnh không chỉ tác động đến tốc độ tăng trưởng mà còn làm tăng tỷ lệ hao hụt, ảnh hưởng năng suất vụ nuôi.

Hình minh họa tôm thẻ
• 12:17 19/05/2025

Dịch bệnh TPD bùng phát trên tôm

Trong thời gian gần đây, dịch bệnh trên tôm tại các vùng nuôi trọng điểm đang diễn biến phức tạp, lan rộng nhiều khu vực với tỷ lệ thiệt hại ngày càng gia tăng. Đáng chú ý nhất là sự bùng phát mạnh của bệnh TPD (bệnh gan tụy cấp tính trên tôm), gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi.

Tôm thẻ chân trắng
• 09:00 07/05/2025

Peptide kháng khuẩn ứng dụng trong phòng bệnh tôm

Trong nuôi tôm, so với giai đoạn năm 1991 nhiều loại kháng sinh được bà con sử dụng có khả năng chống lại nhiều loại vi khuẩn gây bệnh tôm, bằng việc hòa vào nước tạt trực tiếp xuống ao nuôi khi tôm bị bệnh hay trộn vào thức ăn cho ăn trực tiếp để phòng bệnh. Đến năm 2024 hầu hết các chủng vi khuẩn có khả năng kháng đa số các loại kháng sinh.

Kháng khuẩn tôm
• 10:29 05/05/2025

Hành trình chàng trai trẻ mang cá tầm lên rừng

Trong một góc rừng sâu xã Quảng Tân, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh, giữa nơi địa hình hiểm trở và ít người sinh sống, một mô hình nuôi cá nước lạnh đang âm thầm hình thành và phát triển. Chủ nhân của mô hình này là Vũ Đình Hảo, một thanh niên sinh năm 1992, quê ở thị xã Quảng Yên. Anh đã lựa chọn một hướng đi ít người dám theo đuổi: nuôi cá tầm bằng công nghệ bể nổi giữa vùng núi rừng.

Cá tầm
• 20:01 11/07/2025

Đồng Tháp số hóa ngành cá tra, 100% cơ sở được cấp mã nhận diện

Đồng Tháp vừa phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp và kế hoạch phát triển ngành hàng cá tra theo hướng hiện đại, bền vững. Mục tiêu là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào sản xuất và quản lý, nâng cao chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.

Cá tra
• 20:01 11/07/2025

Nuôi biển: Tiềm năng, cơ hội và 4 rào cản

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) vừa có báo cáo cho biết bức tranh toàn cảnh và chi tiết về hiện trạng cá biển toàn cầu: Có 35,5% quần thể cá biển đang bị khai thác quá mức. Đại dương không còn là “kho cá vô tận” và nhiều quốc gia đã phát triển nuôi biển công nghiệp, xa bờ. Việt Nam có điều kiện tự nhiên giàu tiềm năng phát triển nuôi biển, thuận lợi để xây dựng một ngành kinh tế mới khai thác cơ hội toàn cầu, tuy nhiên phải vượt qua 4 rào cản lớn hiện nay.

Nuôi trồng thủy sản
• 20:01 11/07/2025

Cách phân biệt và sử dụng đúng một số loại vôi trong nuôi trồng thủy sản

Vôi là một trong những vật tư quan trọng có vai trò điều chỉnh pH, cải tạo ao, xử lý đáy, diệt khuẩn và bổ sung khoáng chất. Tuy nhiên, trên thị trường hiện nay có nhiều loại vôi khác nhau, mỗi loại có đặc điểm và công dụng riêng. Nếu không hiểu rõ và sử dụng đúng loại vôi phù hợp với mục đích và thời điểm, người nuôi có thể gặp phải những hậu quả như pH tăng đột ngột, tôm cá sốc môi trường, hoặc hiệu quả cải tạo không như mong muốn.

Bón vôi
• 20:01 11/07/2025

Cá "nhuộm phẩm" ở Đà Nẵng: Sự thật có phải hóa chất độc hại

Sáng 6/7, tại khu vực gần chợ Cẩm Lệ (quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng), một người dân phản ánh về việc cá biển có màu sắc bất thường, nghi ngờ bị nhuộm phẩm màu. Sau khi rửa hai con cá kè bằng nước ngọt, nước chuyển sang màu đỏ đậm. Khi luộc, thịt cá cũng có màu đỏ khác lạ, khiến người này nghi ngờ cá bị “nhuộm phẩm”.

Cá
• 20:01 11/07/2025
Some text some message..