Rẫy hoang thành khu bảo tồn Lan rừng
Có chuyên môn về ngành kinh tế nông nghiệp nhưng sau khi tốt nghiệp đại học, anh Đỗ Tuấn Hưng lại quyết định theo nghề lâm nghiệp của cha mình. Tuy nhiên, anh lại có sở thích làm vườn, và cũng nhờ đó khu đất hoang tại buôn Niêng 3, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn (Đák Lắk) ngày xưa đang trở thành vườn sinh thái hấp dẫn.
“Có được khu đất 2 ha mà có rừng, thung lũng, suối xung quanh là cơ duyên cho anh. Ban đầu khu vực này là rẫy hoang và một số ít đất trồng lúa. Nhìn mảnh đất đã gắn với huyền thoại đẹp của người đồng bào bản địa nhưng đang trong cảnh xác xơ vì bỏ phí nên tiếc lắm”, anh Hưng nhớ lại. Từ đó, mặc dù đang làm cho một cơ quan Nhà nước, anh vẫn tranh thủ mọi thời gian rảnh để cải tạo vườn trồng cà phê và cây ăn trái.
Trái cây đến mùa thu hoạch, cây rừng cũng bắt đầu mọc trở lại bao quanh thung lũng. Trên những thân cây rừng xuất hiện những nhánh lan đẹp làm anh rất thích thú. Vốn mang trong mình sở thích chơi hoa lan, anh sưu tầm thêm một số loại lan rừng đem về gây giống thêm.
Khu rừng ngày càng xanh tốt, lan rừng phát triển nhiều tạo thành quần thể lan phong phú. Từ đây, anh quyết định chặt bỏ cà phê và cây ăn trái để khu đất rừng phát triển tự nhiên tạo môi trường cho lan rừng sinh sản.
Anh lặn lội vào rừng York Đôn và các địa phương khác sưu tầm lan, đồng thời nhờ bạn bè, người thân khắp nơi tìm và giới thiệu những loại lan đẹp đem về nuôi trên thân cây. Giới chơi lan tìm đến đây đều trầm trồ trước khu vườn với hàng trăm loại lan rừng tự nhiên và gọi nó bằng cái tên: bảo tàng lan rừng hay khu bảo tồn lan rừng.
Bây giờ vào Troh Bư, đi theo những con đường nhỏ xung quanh vườn cứ như ngập giữa khu rừng cơ man nào là lan. Những mầm lan nhỏ bé mới nảy mầm hay những nhánh lan ôm chặt lấy thân cây gốc lên đến ngọn, có loại đang khoe sắc đón xuân, có loại chờ mùa con ong đi lấy mật mới đơm hoa.
Ở đây, có khoảng 200 loại lan, trong đó nổi bật nhất là loài Giáng hương (nhạn sóc Lào) đặc trưng của rừng Buôn Đôn, Ea Súp; tập trung đầy đủ những giống lan quý vùng Tây Nguyên như Nghinh xuân, Thủy tiên trắng, Quế lan hương…
Lan ở đây hầu như nở quanh năm, mùa nào lan ấy như lập trình hoàn hảo của thiên nhiên: tháng 3 là Thủy tiên trắng tinh khôi hay Long tu vàng rực, tháng 4 là Giả hạc tím thủy chung… và tất nhiên mỗi độ tết đến xuân về thì Nghinh xuân khoe sắc.
Anh Đỗ Tuấn Hưng cho biết: hoa lan vốn khó tính, có nấm cộng sinh thì lan mới nảy mầm; đồng thời, trong số hàng ngàn cây nảy mầm cũng chỉ có vài cây sống. Bởi vậy, anh bảo vệ nghiêm ngặt và hạn chế tác động vào khu vườn để lan sinh sản tự nhiên, phát triển quần thể. Từ niềm đam mê lan rừng và quá trình lặn lội sưu tầm lan, anh Hưng tin rằng thời gian ngắn nữa vườn lan của anh sẽ trở thành “Ngũ bách lan viên” (vườn hoa lan gồm 500 loại). Khi đó, vườn Troh Bư sẽ là khu du lịch sinh thái, trong đó bảo tàng lan là một trong những điểm hẹn của những người chơi lan rừng và phục vụ nhu cầu tham quan, nghiên cứu của du khách.
Bên cạnh đó, anh dự định sẽ đặt hàng các viện nghiên cứu cấy mô để nhân giống phát triển lan phục vụ người đến thăm. Theo đó, du khách đến đây sẽ thỏa sức ngắm hoa lan, tự làm một giỏ lan theo ý mình để ngắm chơi hoặc đem tặng người thân, bạn bè. Dak Lak được biết đến là địa danh có hàng trăm loài lan rừng, bên cạnh du lịch sinh thái, văn hóa, ý tưởng lấy lan rừng tự nhiên làm điểm nhấn cho du khách có thể nói là hướng đi mới mẻ và đầy hứa hẹn.
Giữ hồn Tây Nguyên cho mai sau
Trong số hàng trăm loài lan rừng đã sưu tầm được, anh Hưng thích nhất Thủy tiên vì vẻ đẹp rực rỡ, kiều diễm. Tuy nhiên, điều khiến anh trân trọng lan chính là triết lý sống đẹp đẽ của nó như cốt cách người quân tử: sống tạm trên thân cây nhưng ăn gió, uống sương để đơm hoa.
Bên cạnh khu bảo tồn lan rừng, trong khuôn viên khu vườn của mình, anh Hưng cũng bố trí những tiểu cảnh, khu vực khác nhau tạo thành một “không gian Tây Nguyên thu nhỏ”. Theo đó, phía cuối khu vườn là ngôi nhà nhỏ theo kiểu kiến trúc phương Tây, xung quanh được trang trí bằng gỗ lũa và các loại lan rừng giúp người xem trở về quá khứ của Buôn Ma Thuột với những biệt thự của các chủ đồn điền cà phê thời Pháp thuộc. Phía bên kia là ngôi nhà dài truyền thống của người Êđê bản địa với đầy đủ Gah (khu vực tiếp khách), ôk (khu vực đặt bếp và giường ngủ), Kpan (ghế đánh chiêng) và cầu thang.
Nhiều vật dụng thể hiện nét độc đáo trong sinh hoạt, văn hóa của đồng bào Êđê cũng được chủ nhân khu vườn sưu tầm và trưng bày như: gùi, mõ trâu, xoay tơ, tổ chim ròng rọc…
Đặc biệt, chiếc thuyền độc mộc dài 9 mét, rộng 1,75 mét (đặc trưng của cư dân Êđê, Lào ở vùng Buôn Đôn) được anh xem như báu vật vô giá. Đây là chiếc thuyền độc mộc lớn nhất được tìm thấy tại khu vực phía Tây Dak Lak, do cố nghệ nhân Nay Nen Lào - đệ nhất đẽo thuyền độc mộc ở Buôn Đôn - đẽo từ cây gỗ sao trong vòng 6 tháng trời và hoàn thành năm 1998. Nó được anh Hưng may mắn phát hiện và mang về Troh Bư cách đây 3 năm; mặc dù đã có nhiều người chơi đồ cổ đổi nguyên chiếc xe hơi trị giá 200 triệu đồng nhưng anh đã từ chối. Đó còn là chiếc đàn khổng lồ do anh lặn lội vác từng viên đá lớn từ lòng suối về rồi tạo thành, mà mỗi lần gõ, âm thanh của nó vang lên như tiếng gọi tha thiết của đại ngàn.
Có thể nói, các vật dụng được anh đem về đây bằng tất cả sự trân trọng và sắp xếp một cách hợp lý, trở thành một bảo tàng về Tây Nguyên, tái hiện lại hành trình lịch sử vùng đất từ quá khứ đến hiện tại. Hiện nay anh Hưng vẫn tiếp tục hành trình hoàn thiện không gian khu vườn thân yêu của mình để biến nó thành khu du lịch sinh thái, văn hóa hấp dẫn. Mỗi cuối tuần, anh lại dồn hết tâm trí vào những nhánh lan rừng hay chăm chút cho từng tiểu cảnh ở Troh Bư.
Anh Đỗ Tuấn Hưng bên khóm lan bạch câu.
Một địa điểm du lịch đang dần hiển hiện, rồi đây, khách tới đây sẽ được tận hưởng không gian thơ mộng của thiên nhiên với khu rừng xanh tốt, những nhánh lan tinh khôi, tiếng suối chảy róc rách. Đồng thời, những người đến thăm sẽ được tiếp xúc gần gũi những gia đình người dân Êđê bản địa để tìm hiểu về hành trình làm ra hạt cà phê cũng như những nét văn hóa độc đáo của họ. Bên cạnh đó, người tham quan cũng được thưởng thức những món ăn đậm đà nét văn hóa Tây Nguyên. Đến đây, nhiều người sẽ thích thú khu vườn thơ mộng gắn với huyền thoại đẹp về vùng đất này.
Ai cũng nghĩ rằng anh Đỗ Tuấn Hưng xây dựng Troh Bư chỉ để làm du lịch kiếm tiền, nhưng anh cười và nói: “Mong muốn lớn nhất là giữ lại cái hồn Tây Nguyên cho mai sau”.
Anh Hưng trong một lần đi sưu tầm lan rừng trong Vườn Quốc gia Yok Đôn.
Huyền thoại Troh Bư
Ngày xưa, có vùng đất nọ bị Giàng làm cho khô hạn, mấy năm liền không có một giọt mưa khiến đất đai nứt nẻ, nước uống cũng thiếu. Lâu ngày, bao nhiêu lương thực đều đã dùng hết, người dân trong vùng phải chia nhau vào rừng tìm rau, đào củ để mưu sinh. Rồi chẳng mấy chốc, rau củ trong rừng cũng hết, chim chóc kéo nhau bỏ đi nên con người chẳng còn gì để ăn.
Già làng đã nhiều lần cúng tế bao nhiêu lễ vật nhưng Giàng chẳng hề mủi lòng thương xót, ban mưa. Không thể chờ đợi thêm nữa, cả làng lũ lượt kéo nhau đi tìm vùng đất mới. Nhiều ngày trôi qua, đã cách khá xa nơi ở cũ, nhưng núi rừng xung quanh họ chỉ toàn cây cối xơ xác, tất cả đều đã mệt mỏi và chán nản.
Bỗng dưng, vào một buổi sáng, họ thấy vùng đất trước mắt có cây cối. Đến nơi, thì đó là khu rừng đất đai màu mỡ, cây cối xanh tốt. Họ dừng chân tại con suối nhỏ bên cạnh thung lũng có nhiều nước. Trong lúc tìm cái lót dạ, họ phát hiện trong thung lũng có rất nhiều cá lóc nên cùng nhau đắp bờ tát cá. Khi nước cạn, dân làng lấy làm lạ vì cá lóc ở đâu như từ dưới lòng đất chui lên, bắt mãi chẳng hết. Trưa hôm đó, mọi người được ăn uống no nê. Những ngày sau cũng thế, cá vẫn đầy trong thung lũng, là nguồn sống của cả làng.
Khi cái bụng đã no, cái chân không muốn đi xa nữa, lũ làng, ai cũng thấy ưng cái bụng với vùng đất này. Rồi họ phát hiện quanh đó có nhiều nguồn nước mạch chảy tự nhiên, lại có con suối lớn rất thuận tiện cho việc lập buôn làng mới.
Cho rằng Giàng đã giúp mình, cả làng quyết định dừng chân, tổ chức cúng tạ và bắt tay vào việc lập buôn mới. Họ đặt tên cho buôn mới là buôn Niêng; dòng suối chảy qua buôn là suối Ea Nuôl, còn thung lũng đầy cá lóc ấy là Troh Bư (theo tiếng Êđê nghĩa là thung lũng cá lóc)…