Vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) nhiễm vào gan tụy và ruột của tôm bao gồm tôm thẻ chân trắng và tôm sú dẫn đến chậm tăng trưởng và giảm năng suất trong nuôi tôm. Enterocytozoon hepatopenaei thuộc ngành Microsporidia là ký sinh trùng nội bào bắt buộc với bào tử truyền nhiễm đặc trưng có chứa một cơ quan xâm nhập gọi là sợi cực (polar tube), sợi cực hình ống dạng cuộn tròn như lò xo. Thành bào tử hai lớp, bao gồm lớp ngoài (bào tử ngoài) và lớp bên trong giàu chitin (nội bào tử), cho phép bào tử chịu được môi trường khắc nghiệt bên ngoài. Khi trong điều kiện thích hợp, bào tử hình thành sợi xuyên qua tế bào chủ nhằm bắt đầu quá trình một vòng đời nội bào của chúng, quá trình này gọi là sự nảy mầm. Sợi cực đóng vai trò là ống dẫn qua đó bào tử được chuyển vào tế bào chủ.
Can thiệp RNA (RNAi) là phương pháp đã có trong nhiều nghiên cứu về phòng và điều trị bệnh virus trên tôm. Nghiên cứu này đưa ra giả thuyết rằng, protein sợi cực EhPTP2 có liên quan đến sự nảy mầm của bào tử. Do đó, nghiên cứu dự đoán việc loại bỏ EhPTP2 sẽ ức chế sự sao chép EHP, giảm số lượng EHP và giảm việc truyền EHP. Điều này cung cấp nền tảng để phát triển các phương pháp phòng và điều trị đối với bệnh EHP dựa trên việc ức chế EhPTP2. Protein sợi cực 2 (PTP2) của EHP (EhPTP2) là protein có 284 axit amin có những đặc điểm chung giống với các loài khác thuộc ngành Microsporidia. Hơn nữa, xét nghiệm bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang (IFA) sử dụng kháng thể chống lại EhPTP2, EhPTP2 được định vị trên sợi cực của bào tử nảy mầm, đây cũng là một chiến lược mới để chẩn đoán nhiễm EHP.
Bào tử EHP
Liên quan đến các ứng dụng phòng và điều trị việc ức chế EhPTP2, vì EhPTP2 có liên quan đến quá trình đùn ống cực, điều đó cho thấy rằng việc ức chế axit ribonucleic truyền tin EhPTP2 (mRNA; tham gia tổng hợp protein trong tế bào) sẽ ức chế quá trình đùn và dẫn đến giảm nhiễm bệnh EHP. Đây thực sự là trường hợp khi axit ribonucleic sợi đôi đặc hiệu EhPTP2 (dsRNA; liên quan đến hầu hết các bệnh do virus, nó tạo thành bộ gen của virus trong trường hợp virus DSRNA hoặc được tạo ra trong tế bào chủ trong quá trình nhân lên của virus) được tiêm vào cơ thể trước đó.
Việc ức chế lây nhiễm khi áp dụng kỹ thuật RNAi để phòng ngừa không phải là hiếm khi các gen độc lực quan trọng bị loại bỏ ở tôm chưa nhiễm bệnh trước khi tiếp xúc với mầm bệnh. Ví dụ, trong một ao nuôi người ta đã quan sát thấy mức độ nhiễm EHP rất khác nhau trong quần thể. 25% tôm được tiêm dsRNA và cho thấy nhiễm EHP có thể là những tôm bị nhiễm EHP ở mức độ cao. Nếu có thể áp dụng liều dsRNAEhPTP2 thứ 4, nó có thể làm giảm sự lây nhiễm. Điều hứa hẹn trong nghiên cứu này là việc sử dụng dsRNA đặc hiệu EhPTP2 có thể được sử dụng trong điều trị khi nhiễm bệnh đã được hình thành ở hai khía cạnh: (1) Giảm lượng EHP ở tôm bị nhiễm bệnh và (2) Giảm sự lây lan thêm của EHP ở tôm nhiễm bệnh trong ao nuôi tôm.
Ngoài ra, theo đánh giá cho thấy sự nảy mầm EHP trong ruột có thể không dẫn đến nhiễm bệnh thành công. Ngoài việc nảy mầm trong gan tụy (HP) như trong các báo cáo trước đây, một số lượng nhỏ bào tử nảy mầm đã được phân lập từ ruột và được phát hiện bằng phương pháp IHC của EhPTP2. Dọc theo đường tiêu hóa của tôm có một rây dạ dày (GS) đóng vai trò là bộ lọc loại trừ kích thước các hạt có đường kính khoảng 0,2–0,7µm.
Các hạt lớn hơn được chuyển đến ruột thay vì gan tụy. Vì kích thước trung bình của bào tử hình bầu dục EHP dài khoảng 1µm, nên có thể các bào tử nảy mầm được phát hiện trong ruột có nguồn gốc từ những bào tử đã được dạ dày loại trừ khỏi gan tụy về kích thước. Trong khi các bào tử nảy mầm và tín hiệu tích cực của EhPTP2 từ IHC được phát hiện trong ruột. Vẫn chưa đủ bằng chứng để kết luận rằng ruột là một nơi tăng sinh khác của EHP. Thay vào đó, nghiên cứu suy đoán rằng sự hiện diện của các bào tử nảy mầm trong kết quả mô học là tàn tích của ô nhiễm phân chứ không phải là nhiễm trùng đang hoạt động.