Nguồn gốc bệnh và phân bố bệnh TiLV
Đến năm 2014 phát hiện cá rô phi nhiễm một loại virus RNA mới là nguyên nhân gây ra sản lượng cá giảm số lượng lớn cá rô phi. Cùng khoảng thời gian đó cá rô phi nuôi ở Ecuador và Israel cũng có cá chết với dấu hiệu tương tự. Tương tự, năm 2015, một cuộc điều tra đã được triển khai ở Ai Cập để điều tra cái gọi là “Hội chứng tử vong mùa hè” của cá rô phi và điều này cũng dẫn đến việc xác đồng nhiễm loài Aeromonas với TilV. Ở Thái Lan, cá rô phi nuôi và cá điêu hồng cũng do TiLV ở 22 trong số 32 ổ dịch.
Đến tháng 4 năm 2020, 16 quốc gia trên khắp bốn châu lục đã báo cáo TiLV, bao gồm Colombia, Ecuador, Ai Cập, Israel, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Peru, Philippines, Thái Lan, Tanzania và Uganda, Đài Bắc Trung Hoa, Mexico, Hoa Kỳ và Bangladesh. Rất có thể, sự phân bố địa lý của TiLV rộng hơn nhiều. Tuy nhiên, có thể mức độ lây lan của TiLV là rất cao và hiện nay vẫn chưa có đánh giá về ảnh hưởng của TiLV cho nghề nuôi cá ở các nước, do thiếu các phương pháp thử nghiệm xác định TiLV hay hạn chế của một số dịch vụ thú y quốc gia và có thể do các vấn đề chính trị.
TiLV là mối đe dọa toàn cầu đối với an ninh lương thực
Loại virus này không gây ra bất kỳ nguy cơ rõ ràng nào đối với sức khỏe con người, nhưng nó là mối đe dọa nghiêm trọng đối với ngành cá rô phi toàn cầu và tác động đến sinh kế và an ninh lương thực ở nhiều nơi trên thế giới rằng những cảnh báo khẩn cấp đã được đưa ra bởi một số của các tổ chức bao gồm Tổ chức Sức khỏe Động vật Thế giới (OIE), Mạng lưới các trung tâm nuôi trồng thủy sản khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (NACA), Liên minh tư vấn nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế (CGIAR) về hệ thống thực phẩm nông nghiệp cho cá và Hệ thống thông tin toàn cầu và cảnh báo sớm thuộc FAO (GIEWS).
Vào tháng 5 năm 2017, NACA và OIE đã công bố tài liệu nhấn mạnh tầm quan trọng và nhận thức về căn bệnh này. Hiện tại, TiLV đang được xem xét được đưa vào danh sách các bệnh được OIE liệt kê.
TiLV xuất hiện ở các trang trại nuôi cá rô phi
Kỹ thuật chẩn đón bệnh TiLV nhanh và chính xác
Đối với các xét nghiệm phân tử, các loại mẫu mô khác nhau bao gồm gan, não, mang, mắt, thận trước và tỳ tạng đã được sử dụng để điều trị Phân tích TiLV. Ngoài ra, chất nhầy của cá đã được thử nghiệm để phát hiện TiLV, đều này sẽ giúp không làm chết cá. Kỹ thuật RT-PCR và RT-qPCR đã được được phát triển cho TiLV. Xét nghiệm RT-PCR sử dụng mồi dựa trên trình tự TiLV đoạn 3, cho thấy giới hạn phát hiện là 70.000 bản sao virus. Hay xét nghiệm RT-PCR lồng ghép hai bước nhắm mục tiêu phân khúc 3 đã được phát triển với độ nhạy được cải thiện cho phép giới hạn phát hiện bảy bản sao virus, tuy nhiên sự khuếch đại không đặc hiệu của các đoạn mồi (Nested ext-1 và Nested ext-2), đặc biệt là Nested ext-2, một quy trình RT-PCR bán lồng hai bước thay thế đã được phát triển bằng cách trao đổi mồi Nested ext-2 với mồi ME1 cho khuếch đại PCR bước đầu tiên.
Sau đó, PCR bán lồng này được sử dụng để xác định sự hiện diện của TiLV ở cá rô phi nhiễm bệnh nhẹ. Mặc dù RT-PCR lồng nhau và bán lồng nhau cho thấy độ nhạy cao hơn RT-PCR một bước, có một số hạn chế đối với phương pháp lồng nhau như vậy Kỹ thuật RT-PCR, chẳng hạn như chi phí của xét nghiệm, tốn nhiều thời gian hơn và xu hướng cho kết quả dương tính giả cao hơn do lây nhiễm chéo trong phản ứng bước thứ hai. Ngoài ra so với các xét nghiệm RT-PCR thông thường, xét nghiệm RT-qPCR định lượng sử dụng xét nghiệm dựa trên SYBR Green đã được phát triển với khả năng phát hiện giới hạn của hai bản sao virus.
Xét nghiệm này đã được tính toán là 100 nhạy hơn gấp 10.000 lần so với RT-PCR thông thường. Hay xét nghiệm RT-qPCR dựa trên TaqMan nhắm mục tiêu phân khúc TiLV 3 cũng được phát triển để phát hiện vi rút TiLV. Các phương pháp này thích hợp xét nghiệm tại các phòng thí nghiệm.
PCR bán lồng này được sử dụng để xác định sự hiện diện của TiLV ở cá rô phi nhiễm bệnh nhẹ
Kỹ thuật mới RT-LAMP dựa trên những thay đổi về phép đo màu cung cấp kết quả nhanh chóng, tiết kiệm chi phí, dễ thực hiện và có thể thực hiện một cách di động ở ao nuôi hay các nhà máy. Xét nghiệm RT-LAMP cho thấy độ nhạy là 80,95% - 100% cho TiLV. Các xét nghiệm RT-LAMP mang lại cơ hội trong tương lai để thử nghiệm nhanh chóng và rẻ tiền ở cấp độ trang trại.
Vì TiLV tồn tại trong cá trong một thời gian nhất định nên sử dụng huyết thanh để phát hiện phản ứng kháng thể cụ thể có thể được áp dụng để đánh giá liệu cá trước đây đã tiếp xúc với TiLV. Để minh họa điều này, xét nghiệm hấp thụ miễn dịch (ELISA) để phát hiện đáp ứng IgM. Cụ thể, phản ứng miễn dịch ở cá bị nhiễm TiLV bằng cách phủ một đĩa ELISA sử dụng các protein kháng nguyên có nguồn gốc từ phân đoạn TiLV 8. Độ nhạy của chúng ELISA là 100% và 80,8%, trong khi độ đặc hiệu là 92,6% và 95,6% so với xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA) và PCR bán lồng tương ứng. Do đó, phát triển ELISA sử dụng toàn bộ virus đã được tinh chế làm kháng nguyên và cho thấy rằng phương pháp có thể phân biệt mẫu cá nhiễm TiLV và mẫu cá chưa nhiễm TiLV. Kỹ thuật ELISA mang lại những lợi ích tiềm năng để theo dõi tình trạng miễn dịch của quần thể cá và có thể được áp dụng để sàng lọc cá bố mẹ.
Để hạn chế tác động tiêu cực và ngăn chặn sự lây lan thêm của virus, cần có các phương pháp kết hợp. Các nỗ lực an toàn sinh học trong nước và quốc tế đã được thực hiện, xây dựng năng lực và hợp tác rộng rãi giữa các bên liên quan trong nước và quốc tế phải được được ưu tiên. Những chiến lược như vậy sẽ hỗ trợ việc quản lý và các nỗ lực kiểm soát nhằm giải quyết TiLV.