Kết hợp phân đoạn bọt và ozone trong hệ thống RAS nước ngọt (Phần 2)

Sự tích tụ chất hữu cơ trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) bắt nguồn từ chất bài tiết của cá và thức ăn thừa.

RAS
Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng theo công nghệ RAS được đánh giá tiềm năng phát triển và mở rộng. Ảnh minh họa

phần 1, Tepbac đã giới thiệu cơ bản về phân đoạn bọt (FF) cũng như tính oxy hóa mạnh của ozone. Trong phần 2 này, chúng ta cùng tìm hiểu ảnh hưởng của FF kết hợp với O3 tác động như thế nào đến bộ lọc sinh học. 

1. Phân đoạn bọt

Phân đoạn bọt đã được chứng minh là làm giảm tải trọng chất hữu cơ trong RAS. Hầu hết các nghiên cứu trước đây được thực hiện trong nước mặn vì sự phân đoạn bọt có tác dụng thấp trong RAS nước ngọt do sức căng bề mặt thấp hơn. Tuy nhiên, thử nghiệm hiện tại cho thấy quá trình FF cũng hoạt động tốt trong nước ngọt. Các tác động tích cực của FF dường như chậm hơn so với quá trình ozon hóa trực tiếp, trong việc loại bỏ các chất hữu cơ ổn định trong khoảng thời gian từ 3 đến 4 tuần. Các FF dường như đặc biệt hiệu quả trong việc kiểm soát tải trọng hữu cơ dạng hạt và khối lượng hạt.

Vào cuối thử nghiệm, cả việc sử dụng O3 và FF đều làm giảm đáng kể khối lượng hạt so với đối chứng. Riêng O3 làm giảm 32%, FF làm giảm 62% thể tích hạt và nghiệm thức kết hợp cả hai làm giảm 75% so với đối chứng.

Diện tích bề mặt hạt cũng bị ảnh hưởng, FF làm giảm 53% tổng diện tích bề mặt, O3 giảm 68% và kết hợp cả hai dẫn đến giảm 83% diện tích bề mặt hạt so với đối chứng.

Tổng BOD5 (chất hữu cơ được đo bằng nhu cầu oxy sinh học trong 5 ngày) bị ảnh hưởng đáng kể bởi cả quá trình FF và quá trình ozon hóa dẫn đến giảm lần lượt 51%, 43% và 75% đối với FF, O3 và FF+O3 so với đối chứng. 

Hoạt động của vi khuẩn cũng bị ảnh hưởng mạnh bởi sự phân đoạn bọt. Hoạt động giảm nhanh chóng trong các hệ thống được xử lý bằng ozone, sau một tuần giảm 91% trong hệ thống chỉ có ozone và 96% trong hệ thống FF+O3 so với đối chứng. Tuy nhiên, hoạt động của vi khuẩn trong các hệ thống ozone dường như tăng trở lại và cuối thử nghiệm thấp hơn 48% so với đối chứng. Còn ở các hệ thống FF đã giảm 61%, trong khi hệ thống FF+O3 vẫn ở mức thấp (giảm 90%) so với đối chứng. Trong nghiên cứu hiện tại, mức nitrit thấp hơn đã được tìm thấy trong các hệ thống được trang bị thiết bị FF. Điều này có thể là quá trình lọc sinh học được cải thiện, dẫn đến giảm sự cạnh tranh của vi khuẩn dị dưỡng do hàm lượng chất hữu cơ có trong hệ thống thấp hơn.

Sự giảm đồng thời cả chất hữu cơ và hoạt động của vi khuẩn được quan sát thấy trong nghiên cứu hiện tại cho thấy việc loại bỏ trực tiếp vi khuẩn bằng FF trong nước ngọt tương tự như trong nước biển. Ngoài ra, việc giảm chất hữu cơ làm giảm khả năng sôi nảy nở của vi khuẩn có hại.

vi khuẩn có hại
Giảm chất hữu cơ làm giảm khả năng sôi nảy nở của vi khuẩn có hại. Ảnh minh họa

2. O3

Các hệ thống sử dụng ozone cho thấy phản ứng ngay lập tức và hầu hết các chỉ số đều đạt mức thấp nhất trong vài tuần đầu tiên. Điều này rất có thể là kết quả của hiệu ứng oxy hóa của ozone đối với vi khuẩn dẫn đến sự cải thiện chất lượng nước do sự suy giảm nhanh chóng hoạt động của vi khuẩn và số lượng hạt so với đối chứng. Một phần của hiệu ứng này cũng có thể là do việc loại bỏ chất rắn được cải thiện vì ozone có thể cải thiện hiệu quả loại bỏ chất rắn. 

Các hệ thống sử dụng ozon hóa có sự gia tăng theo thời gian ở hầu hết các chỉ số có thể  là do liều lượng O3 quá thấp. Liều lượng thấp hơn này giúp vi khuẩn tăng khả năng chịu đựng để sinh sôi nảy nở. Nghiên cứu hiện tại cho thấy sự gia tăng hoạt động của vi khuẩn được quan sát kèm theo sự gia tăng tương tự về thể tích hạt, cho thấy rằng vi khuẩn đang tập hợp lại. Đồng thời, số lượng hạt không tăng cho thấy rằng vi khuẩn bơi tự do đã bị loại bỏ. Vi khuẩn trong màng sinh học và vi khuẩn liên kết với các hạt nói chung có khả năng chống lại sự khử trùng, bao gồm cả O3, hơn vi khuẩn sống tự do (Hess-Erga và cộng sự, 2008).

3. Ảnh hưởng đến bộ lọc sinh học

Như đã thảo luận trong một nghiên cứu trước đây, sự suy giảm chất hữu cơ trong nước có thể đi kèm với sự chuyển của chất hữu cơ vào bộ lọc sinh học. Để giải quyết vấn đề này, nghiên cứu hiện tại đã kiểm tra chất hữu cơ (tổng COD) liên quan đến các phần tử lọc sinh học. Mặc dù không đáng kể, sự tích tụ chất hữu cơ thấp hơn đã được quan sát thấy trong tất cả các hệ thống được xử lý so với đối chứng (thấp hơn khoảng 17% trong các hệ thống ozon hóa và thấp hơn 23% trong hệ thống có FF), cho thấy rằng các phương pháp áp dụng không chỉ cải thiện trực tiếp chất lượng nước mà còn cả “chất lượng hệ thống” tổng thể. Điều này được hỗ trợ thêm bởi mức nitrit thấp hơn trong các hệ thống được xử lý bằng phân đoạn bọt. 

Nghiên cứu này đã chứng minh sử dụng phân đoạn bọt trong RAS nước ngọt có thể dẫn đến việc giảm chất hữu cơ tương tự như như trong RAS nước mặn. Hiệu quả loại bỏ chất hữu cơ từ quá trình FF đã được cải thiện hơn bằng cách ứng dụng đồng thời ozone. Việc giảm nhiều chất hữu cơ trong hệ thống, kèm theo mức độ hoạt động của vi khuẩn giảm và hiệu quả nitrat hóa của bộ lọc sinh học tăng lên rõ ràng, có thể dẫn đến giảm việc sử dụng các chất khử trùng cũng như cải thiện chất lượng sản xuất tổng thể. 

Nguồn tham khảo: Foam fractionation and ozonation in freshwater recirculation aquaculture systems, Aquacultural Engineering Volume 95, November 2021, 102195 

Đăng ngày 31/12/2021
Sương Phạm @suong-pham
Nuôi trồng

FLOCponics: Sự tích hợp hoàn hảo của công nghệ biofloc và cây thủy canh

FLOCponics là một loại Aquaponics thay thế tích hợp công nghệ biofloc (BFT) với sản xuất cây trồng không sử dụng đất.

flocponics
• 15:51 07/03/2022

Mô hình nuôi ba ba lãi 300 triệu đồng/năm

Mô hình nuôi ba ba của ông Lương Thành Kỷ, ở thị trấn Búng Tàu, huyện Phụng Hiệp. Qua 14 năm phát triển, đến nay đàn ba ba sinh sản của ông Kỷ đã phát triển hơn 1.500 con, mỗi năm xuất bán ra thị trường từ 8.000-10.000 con giống, trừ hết các khoản chi phí, lợi nhuận gần 300 triệu đồng/năm.

Ba ba.
• 09:38 14/06/2021

Kinh tế ổn định nhờ nuôi ba ba sinh sản

Hơn 20 năm nuôi ba ba sinh sản, anh Nguyễn Đức Lợi, ấp Phước Thọ B, xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng có cuộc sống khấm khá. Gắn bó lâu năm với con ba ba một phần cũng vì sự yêu thích loài vật này, ba ba lại dễ nuôi, nhẹ công chăm sóc, thị trường tiêu thụ tốt, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình anh.

• 15:40 03/03/2021

Thu trăm triệu đồng mỗi năm từ nuôi ba ba

Nuôi ba ba gai là một công việc đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn và kỹ thuật cao. Nhưng bằng ý chí, nghị lực, sự đam mê tận tụy với công việc cùng với áp dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật mà ông Phạm Tất Đạt ở xã Yên Bình, thành phố Tam Điệp đã thành công, vươn lên trở thành triệu phú.

kỹ thuật sản xuất giống baba
• 10:00 30/05/2017

Tình hình khuẩn Vibrio ngày càng tăng

Trong những năm gần đây, ngành nuôi tôm tại Việt Nam đang đối mặt với một thách thức lớn: sự gia tăng nhanh chóng của vi khuẩn Vibrio trong các ao nuôi. Đây là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe của tôm và hiệu quả kinh tế của người nuôi.

Tôm bệnh
• 10:12 24/04/2025

Tôm chết nổi trên mặt nước

Một trong những hiện tượng nghiêm trọng và ám ảnh nhất chính là tôm chết nổi trên mặt nước. Đây không chỉ là dấu hiệu cho thấy sức khỏe đàn tôm đang bị đe dọa nghiêm trọng, mà còn là lời cảnh báo về một chuỗi vấn đề tiềm ẩn trong quy trình quản lý ao nuôi. Qua bài viết này, tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn đã tích lũy được trong quá trình nuôi, nhằm giúp bà con hiểu rõ nguyên nhân, cách xử lý và phòng ngừa hiệu quả hiện tượng tôm chết nổi.

Tôm chết
• 10:10 22/04/2025

Hệ thống cảnh báo sớm dịch bệnh trong nuôi tôm thông qua phân tích dữ liệu

Hệ thống cảnh báo sớm dịch bệnh trong nuôi tôm thông qua phân tích dữ liệu là một công nghệ tiên tiến giúp phát hiện và ngăn ngừa dịch bệnh trong ngành nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là trong nuôi tôm thâm canh.

Máy đo môi trường
• 10:47 21/04/2025

Nếu vì một nguyên nhân nào đó sinh ra khí độc thì phải xử lý như thế nào?

Trong quá trình nuôi tôm, khí độc là một trong những yếu tố nguy hiểm âm thầm nhưng đầy sát thương.

Ao nuôi tôm
• 10:02 21/04/2025

Hiệu quả của peptide kháng khuẩn (AMPs) trong phòng trị bệnh tôm

Trong ngành nuôi tôm, so với giai đoạn năm 1991, người nuôi từng sử dụng nhiều loại kháng sinh để phòng và trị bệnh.

Vi khuẩn
• 00:30 25/04/2025

Tình hình khuẩn Vibrio ngày càng tăng

Trong những năm gần đây, ngành nuôi tôm tại Việt Nam đang đối mặt với một thách thức lớn: sự gia tăng nhanh chóng của vi khuẩn Vibrio trong các ao nuôi. Đây là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe của tôm và hiệu quả kinh tế của người nuôi.

Tôm bệnh
• 00:30 25/04/2025

Chung tay gìn giữ sông Cầu khỏi biến đổi khí hậu

Sông Cầu – dòng chảy quan trọng ở miền Bắc Việt Nam – đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, hoạt động sản xuất – kinh doanh và sự gia tăng dân số đô thị. Việc bảo vệ dòng sông này là nhiệm vụ cấp thiết nhằm gìn giữ tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững cho cả khu vực.

Sông Cầu
• 00:30 25/04/2025

Công nghệ chỉnh sửa gen trong nuôi tôm: Tăng sức đề kháng bệnh mà không cần kháng sinh

Ngành nuôi tôm Việt Nam đang đối mặt với nỗi lo lớn: dịch bệnh như đốm trắng (WSSV) hay hoại tử gan (AHPND) khiến tôm chết hàng loạt, gây thiệt hại nặng nề.

Tôm
• 00:30 25/04/2025

Mối quan hệ thời gian đông máu và sức khỏe tôm nuôi

Sức khoẻ tôm nuôi trong ao ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tác động như thời tiết khí hậu, mùa vụ, chất lượng nguồn nước với các thông số môi trường liên quan, dịch bệnh, chất lượng giống, thức ăn, mật độ nuôi, kỹ thuật chăm sóc quản lý... Đánh giá tôm khoẻ, tôm yếu, thông qua hoạt động bơi lội, tiêu thụ mồi, tăng trưởng, tỷ lệ sống, độ đồng đều size cỡ, cơ thịt, màu sắc vỏ, những vấn đề liên quan đến gan, ruột tôm…Một phương pháp đánh giá nhanh, thông qua thời gian đông máu tôm.

Tôm thẻ chân trắng
• 00:30 25/04/2025
Some text some message..